> Chuyên mục > Nghiên cứu - Trao đổi > Đại tướng huyền thoại - Một nhà lập pháp

Đại tướng huyền thoại - Một nhà lập pháp

05/10/2018
Toàn dân, toàn quân đều biết Đại tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp là ĐBQH liên tục từ Khóa I (1946-1960) đến hết Khóa VII (1981-1987). Khóa I, Đại tướng ứng cử tại tỉnh Nghệ An; các Khóa II, III, IV ứng cử tại tỉnh Quảng Bình; Khóa VI và VII ứng cử tại tỉnh Bình Trị Thiên. Khóa VI, Đại tướng là thành viên Ủy ban Dự thảo Hiến pháp.
 
Tuy nhiên không phải đến khi Đại tướng hoạt động trong QH, chúng ta mới biết tư duy lập pháp của Đại tướng. Như đã biết, đi đón Bác từ Pắc Bó (Cao Bằng) qua Chợ Đồn (Bắc Kạn) về Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang chính là đồng chí Võ Nguyên Giáp. Sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 Khóa I, những người trực tiếp làm việc với Bác để chuẩn bị nội dung cho Quốc dân Đại hội Tân Trào là các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp. Cuối tháng 7 năm 1945, giữa lúc tình hình trong nước cũng như thế giới đang tiến triển có lợi cho cách mạng thì Bác ốm nặng (do cuộc sống quá kham khổ nơi rừng thiêng, nước độc, công việc lại căng thẳng, vắt sức). Thời gian đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm việc dưới làng Tân Lập, hàng ngày đều đặn lên lán Nà Lừa báo cáo công việc với Bác. Có đêm Bác yếu quá, đồng chí đã xin phép được ở lại với Bác. Đêm khuya khi tỉnh lại sau cơn sốt, Bác đã nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp khá nhiều công việc, chuẩn bị cho Quốc dân Đại hội, cho Tổng khởi nghĩa...
 
Tại Đại hội, đồng chí Trường Chinh đã báo cáo, phân tích tình hình trong nước và thế giới, nói rõ quân đồng minh đang thắng lớn và ngày thất bại của quân phát xít đã đến rất gần. Báo cáo nêu rõ yêu cầu cấp bách phải thành lập ngay Ủy ban dân tộc giải phóng để sau khi giành được chính quyền sẽ trở thành Chính phủ cách mạng lâm thời. Tiếp đó, Đại hội được nghe các báo cáo về tình hình công nhân; tình hình nông dân; văn hóa, trí thức; phong trào cách mạng ở Hà Nội... Đại hội đã thảo luận sôi nổi và nhất trí cao với chủ trương khởi nghĩa trong cả nước để giành chính quyền... Sau này vào dịp chuẩn bị kỷ niệm 50 năm QH Việt Nam, trong một cuộc hội thảo, nhiều ý kiến nói rằng, chương trình nghị sự kỳ họp QH bây giờ chẳng khác gì bao nhiêu so với chương trình Quốc dân Đại hội Tân Trào; nghĩa là cũng nghe báo cáo về các lĩnh vực, đại biểu thảo luận và biểu quyết theo đa số...
 
Tình cờ bài tham luận hội thảo của Đại tướng đã khẳng định điều đó, Đại tướng nói, “Quốc dân Đại hội Tân Trào có ý nghĩa là một QH lâm thời, hay một tiền QH bởi vì cách mạng chưa thành công. Quốc dân Đại hội Tân Trào tạo căn cứ pháp lý cho sự ra đời của chế độ cộng hòa dân chủ của nước ta, cho một Chính phủ  lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khi cách mạng đã thành công”(1).
 
Thì ra ngay từ khi chưa có chính quyền, Đảng, Bác, các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp... đã hình dung rất rõ ràng trình tự có tính nguyên tắc của việc thành lập bộ máy nhà nước. Trước hết phải có QH; có QH rồi mới thành lập được Chính phủ và cơ quan tư pháp... Đến lần kỷ niệm 60 năm QH Việt Nam, trong cuộc gặp mặt ngày 4.1.2006 tại Hà Nội (khi ấy Đại tướng đã sang tuổi 96), trong lời phát biểu (vo) mà chúng tôi ghi âm lại được, Đại tướng nói:“Chúng ta có QH ngày nay đương nhiên phải nhớ đến tư tưởng, đường lối chỉ đạo của Bác Hồ kính yêu. Người hẳn đã có sẳn một kế hoạch từ trước, tôi nghĩ như vậy, cho nên trong lán Nà Lừa một ngày tháng 7.1945, Người đã nói: nhất định phải họp Đại hội Tân Trào, có đại biểu ba kỳ, dù thiếu một vài người cũng họp bởi vì thời cơ đến. Tiếp đó thành lập Chính phủ lâm thời, Bác cùng Bộ Chính trị thảo luận và thành lập Chính phủ chính thức. Sau khi lập Chính phủ chính thức, ngay trước kỳ họp đầu tiên, ngày 3.9, Bác đã nói:“Chúng ta đã có đại biểu của ba kỳ, chúng ta có Quốc dân Đại hội, có Tuyên ngôn Độc lập, nước ta là nước độc lập nhưng chưa do toàn dân bầu lên. Vì vậy cho nên, về sức mạnh pháp lý của QH có thể với quốc tế vì lý do này, lý do kia chưa được thừa nhận”. Và chúng ta thực hiện Tổng tuyển cử trong lúc bắt đầu chiến tranh ở phía Nam, đó là một quyết định cực kỳ sáng suốt, cực kỳ dũng cảm. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên đã diễn ra trong một không khí sôi sục mà nước mới được tuyên bố độc lập mấy ngày nhưng toàn thể đồng bào nước ta từ Nam chí Bắc đều đi bỏ phiếu bầu ra QH đầu tiên cho đến mấy khóa sau”(2).
 
Hai lần được nghe Đại tướng nói, chúng tôi rất khâm phục trí tuệ lập pháp uyên bác của ông; sau này mới được biết Đại tướng đã nhận bằng cử nhân luật từ năm 1937 (Licence en Droit).
 
Trong khi tham gia làm Văn kiện QH toàn tập, có dịp đọc lại toàn bộ các văn bản tại các kỳ họp của QH từ năm 1946 đến nay, chúng tôi bắt gặp khá nhiều văn bản hoặc bài phát biểu của Đại tướng tại “nghị trường”, nhưng tuyệt nhiên không hề thấy một dòng hoặc một lời nào Đại tướng thể hiện về bản thân mình, mà bao giờ cũng là nhân dân, là Đảng, là Bác, là Quân đội nhân dânViệt Nam anh hùng. Ngay cả một bài hồi ký, có độ dài 22 trang in về việc làm ĐBQH Khóa I, Đại tướng cũng chỉ nói về cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, việc xây dựng Nhà nước sau Cách mạng tháng Tám và lồng vào đó là sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng và trí tuệ anh minh của Bác. Đại tướng viết, “Bác hiểu rằng, việc xây dựng nhà nước mới không chỉ bằng những lời kêu gọi. Việc giáo dục phải đi đôi với những biện pháp về tổ chức, cơ chế. Và Bác Hồ, với tầm hiểu biết về mọi mặt của mình, qua kinh nghiệm của các nước, đã cùng với Đảng bắt tay vào đặt những viên gạch đầu tiên để xây dựng mô hình một Nhà nước cộng hòa non trẻ. Mô hình đó như thế nào? Đó thực sự là một quá trình trăn trở, tìm tòi, vừa học, vừa làm, vừa bổ sung ngày một hoàn chỉnh” (3)
Ngay cả sáng quyền pháp luật, Đại tướng đề xuất và chỉ đạo soạn thảo các đạo luật quan trọng như Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1960; Luật sửa đổi, bổ sung Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1962 và sửa đổi, bổ sung năm 1965; Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1982 và Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1982, Đại tướng cũng chỉ nói đó là sự quyết đoán của QH, của Ban soạn thảo các dự án luật. Quả thực, Đại tướng là một nhân cách lớn, khiêm tốn, hết mực khiêm tốn, cực kỳ khiêm tốn.
 
Năm 1983, khi vào lăng viếng Lênin ở Quảng trường đỏ Moscow, Liên bang Nga, tôi chợt nhớ mấy câu thơ đặc sắc của thi hào Mayakovsky nhưng chưa hình dung hết hình tượng, bối cảnh của những vần thơ. Đến khi được trực tiếp viếng Đại tướng và trực tiếp quan sát những dòng người, già, trẻ, gái, trai dài như sông, như suối, từ đại lộ này nối sang con phố khác, nhẫn nại nhích dần từng bước với những vẻ mặt đau đớn, bồn chồn, chờ đợi đến lượt viếng Đại tướng, tôi mới tường tận hiểu rõ nội hàm sâu sắc của mấy câu thơ đó: Em nhỏ nghiêm trang như các cụ già/ Các cụ già khóc như em nhỏ/ Gió như người mất ngủ/ Trên đất lớn kêu gào...
 
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Song, ngay từ Kỳ họp thứ Năm, QH Khóa VI, ngày 28.5.1979, Đại tướng đã lưu ý tới công việc trọng đại này. Trên diễn đàn QH, khi trình bày ý nghĩa lớn lao của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Đại tướng đã kêu gọi“Chúng ta hãy sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” (Văn kiện Quốc hội toàn tập, tập 5, tr. 756; Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009). Lời kêu gọi đó càng có ý nghĩa thống thiết, cấp bách trong khi chúng ta đang học tập thiết thực và làm theo có hiệu quả tấm gương đạo đức của Bác.
 
Theo daibieunhandan.vn
__________
(1) VPQH: Quốc dân Đại hội Tân Trào, HN. 1995, trang 27.
(2) VPQH: Kỷ yếu gặp mặt kỷ niệm 60 năm QH VN, HN. 2006, trang 70-71.
(3) Hồi ký ĐBQH Khóa I, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 2000, trang 15.
 

Đại tướng huyền thoại - Một nhà lập pháp

05/10/2018
Toàn dân, toàn quân đều biết Đại tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp là ĐBQH liên tục từ Khóa I (1946-1960) đến hết Khóa VII (1981-1987). Khóa I, Đại tướng ứng cử tại tỉnh Nghệ An; các Khóa II, III, IV ứng cử tại tỉnh Quảng Bình; Khóa VI và VII ứng cử tại tỉnh Bình Trị Thiên. Khóa VI, Đại tướng là thành viên Ủy ban Dự thảo Hiến pháp.
 
Tuy nhiên không phải đến khi Đại tướng hoạt động trong QH, chúng ta mới biết tư duy lập pháp của Đại tướng. Như đã biết, đi đón Bác từ Pắc Bó (Cao Bằng) qua Chợ Đồn (Bắc Kạn) về Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang chính là đồng chí Võ Nguyên Giáp. Sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 Khóa I, những người trực tiếp làm việc với Bác để chuẩn bị nội dung cho Quốc dân Đại hội Tân Trào là các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp. Cuối tháng 7 năm 1945, giữa lúc tình hình trong nước cũng như thế giới đang tiến triển có lợi cho cách mạng thì Bác ốm nặng (do cuộc sống quá kham khổ nơi rừng thiêng, nước độc, công việc lại căng thẳng, vắt sức). Thời gian đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm việc dưới làng Tân Lập, hàng ngày đều đặn lên lán Nà Lừa báo cáo công việc với Bác. Có đêm Bác yếu quá, đồng chí đã xin phép được ở lại với Bác. Đêm khuya khi tỉnh lại sau cơn sốt, Bác đã nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp khá nhiều công việc, chuẩn bị cho Quốc dân Đại hội, cho Tổng khởi nghĩa...
 
Tại Đại hội, đồng chí Trường Chinh đã báo cáo, phân tích tình hình trong nước và thế giới, nói rõ quân đồng minh đang thắng lớn và ngày thất bại của quân phát xít đã đến rất gần. Báo cáo nêu rõ yêu cầu cấp bách phải thành lập ngay Ủy ban dân tộc giải phóng để sau khi giành được chính quyền sẽ trở thành Chính phủ cách mạng lâm thời. Tiếp đó, Đại hội được nghe các báo cáo về tình hình công nhân; tình hình nông dân; văn hóa, trí thức; phong trào cách mạng ở Hà Nội... Đại hội đã thảo luận sôi nổi và nhất trí cao với chủ trương khởi nghĩa trong cả nước để giành chính quyền... Sau này vào dịp chuẩn bị kỷ niệm 50 năm QH Việt Nam, trong một cuộc hội thảo, nhiều ý kiến nói rằng, chương trình nghị sự kỳ họp QH bây giờ chẳng khác gì bao nhiêu so với chương trình Quốc dân Đại hội Tân Trào; nghĩa là cũng nghe báo cáo về các lĩnh vực, đại biểu thảo luận và biểu quyết theo đa số...
 
Tình cờ bài tham luận hội thảo của Đại tướng đã khẳng định điều đó, Đại tướng nói, “Quốc dân Đại hội Tân Trào có ý nghĩa là một QH lâm thời, hay một tiền QH bởi vì cách mạng chưa thành công. Quốc dân Đại hội Tân Trào tạo căn cứ pháp lý cho sự ra đời của chế độ cộng hòa dân chủ của nước ta, cho một Chính phủ  lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khi cách mạng đã thành công”(1).
 
Thì ra ngay từ khi chưa có chính quyền, Đảng, Bác, các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp... đã hình dung rất rõ ràng trình tự có tính nguyên tắc của việc thành lập bộ máy nhà nước. Trước hết phải có QH; có QH rồi mới thành lập được Chính phủ và cơ quan tư pháp... Đến lần kỷ niệm 60 năm QH Việt Nam, trong cuộc gặp mặt ngày 4.1.2006 tại Hà Nội (khi ấy Đại tướng đã sang tuổi 96), trong lời phát biểu (vo) mà chúng tôi ghi âm lại được, Đại tướng nói:“Chúng ta có QH ngày nay đương nhiên phải nhớ đến tư tưởng, đường lối chỉ đạo của Bác Hồ kính yêu. Người hẳn đã có sẳn một kế hoạch từ trước, tôi nghĩ như vậy, cho nên trong lán Nà Lừa một ngày tháng 7.1945, Người đã nói: nhất định phải họp Đại hội Tân Trào, có đại biểu ba kỳ, dù thiếu một vài người cũng họp bởi vì thời cơ đến. Tiếp đó thành lập Chính phủ lâm thời, Bác cùng Bộ Chính trị thảo luận và thành lập Chính phủ chính thức. Sau khi lập Chính phủ chính thức, ngay trước kỳ họp đầu tiên, ngày 3.9, Bác đã nói:“Chúng ta đã có đại biểu của ba kỳ, chúng ta có Quốc dân Đại hội, có Tuyên ngôn Độc lập, nước ta là nước độc lập nhưng chưa do toàn dân bầu lên. Vì vậy cho nên, về sức mạnh pháp lý của QH có thể với quốc tế vì lý do này, lý do kia chưa được thừa nhận”. Và chúng ta thực hiện Tổng tuyển cử trong lúc bắt đầu chiến tranh ở phía Nam, đó là một quyết định cực kỳ sáng suốt, cực kỳ dũng cảm. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên đã diễn ra trong một không khí sôi sục mà nước mới được tuyên bố độc lập mấy ngày nhưng toàn thể đồng bào nước ta từ Nam chí Bắc đều đi bỏ phiếu bầu ra QH đầu tiên cho đến mấy khóa sau”(2).
 
Hai lần được nghe Đại tướng nói, chúng tôi rất khâm phục trí tuệ lập pháp uyên bác của ông; sau này mới được biết Đại tướng đã nhận bằng cử nhân luật từ năm 1937 (Licence en Droit).
 
Trong khi tham gia làm Văn kiện QH toàn tập, có dịp đọc lại toàn bộ các văn bản tại các kỳ họp của QH từ năm 1946 đến nay, chúng tôi bắt gặp khá nhiều văn bản hoặc bài phát biểu của Đại tướng tại “nghị trường”, nhưng tuyệt nhiên không hề thấy một dòng hoặc một lời nào Đại tướng thể hiện về bản thân mình, mà bao giờ cũng là nhân dân, là Đảng, là Bác, là Quân đội nhân dânViệt Nam anh hùng. Ngay cả một bài hồi ký, có độ dài 22 trang in về việc làm ĐBQH Khóa I, Đại tướng cũng chỉ nói về cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, việc xây dựng Nhà nước sau Cách mạng tháng Tám và lồng vào đó là sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng và trí tuệ anh minh của Bác. Đại tướng viết, “Bác hiểu rằng, việc xây dựng nhà nước mới không chỉ bằng những lời kêu gọi. Việc giáo dục phải đi đôi với những biện pháp về tổ chức, cơ chế. Và Bác Hồ, với tầm hiểu biết về mọi mặt của mình, qua kinh nghiệm của các nước, đã cùng với Đảng bắt tay vào đặt những viên gạch đầu tiên để xây dựng mô hình một Nhà nước cộng hòa non trẻ. Mô hình đó như thế nào? Đó thực sự là một quá trình trăn trở, tìm tòi, vừa học, vừa làm, vừa bổ sung ngày một hoàn chỉnh” (3)
Ngay cả sáng quyền pháp luật, Đại tướng đề xuất và chỉ đạo soạn thảo các đạo luật quan trọng như Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1960; Luật sửa đổi, bổ sung Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1962 và sửa đổi, bổ sung năm 1965; Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1982 và Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1982, Đại tướng cũng chỉ nói đó là sự quyết đoán của QH, của Ban soạn thảo các dự án luật. Quả thực, Đại tướng là một nhân cách lớn, khiêm tốn, hết mực khiêm tốn, cực kỳ khiêm tốn.
 
Năm 1983, khi vào lăng viếng Lênin ở Quảng trường đỏ Moscow, Liên bang Nga, tôi chợt nhớ mấy câu thơ đặc sắc của thi hào Mayakovsky nhưng chưa hình dung hết hình tượng, bối cảnh của những vần thơ. Đến khi được trực tiếp viếng Đại tướng và trực tiếp quan sát những dòng người, già, trẻ, gái, trai dài như sông, như suối, từ đại lộ này nối sang con phố khác, nhẫn nại nhích dần từng bước với những vẻ mặt đau đớn, bồn chồn, chờ đợi đến lượt viếng Đại tướng, tôi mới tường tận hiểu rõ nội hàm sâu sắc của mấy câu thơ đó: Em nhỏ nghiêm trang như các cụ già/ Các cụ già khóc như em nhỏ/ Gió như người mất ngủ/ Trên đất lớn kêu gào...
 
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Song, ngay từ Kỳ họp thứ Năm, QH Khóa VI, ngày 28.5.1979, Đại tướng đã lưu ý tới công việc trọng đại này. Trên diễn đàn QH, khi trình bày ý nghĩa lớn lao của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Đại tướng đã kêu gọi“Chúng ta hãy sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” (Văn kiện Quốc hội toàn tập, tập 5, tr. 756; Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009). Lời kêu gọi đó càng có ý nghĩa thống thiết, cấp bách trong khi chúng ta đang học tập thiết thực và làm theo có hiệu quả tấm gương đạo đức của Bác.
 
Theo daibieunhandan.vn
__________
(1) VPQH: Quốc dân Đại hội Tân Trào, HN. 1995, trang 27.
(2) VPQH: Kỷ yếu gặp mặt kỷ niệm 60 năm QH VN, HN. 2006, trang 70-71.
(3) Hồi ký ĐBQH Khóa I, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 2000, trang 15.