Giới thiệu > Sơ lược về Gia Lai
 

Tổng quan Kinh tế - Xã hội


1. Nông - lâm nghiệp:
Gia Lai có gần 500.000 ha diện tích đất sản xuất nông nghiệp, trong đó có hơn 291.000 ha đất cho trồng cây hàng năm và hơn 208.000 ha cây lâu năm nên có tiềm năng rất lớn để phát triển sản xuất nông nghiệp .
Do tính chất đặc trưng của đất đai và khí hậu, tỉnh Gia Lai có thể bố trí một tập đoàn cây trồng, vật nuôi phong phú, đa dạng, có giá trị kinh tế cao; xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh tập trung có quy mô lớn với những sản phẩm hàng hóa có lợi thế cạnh tranh. Đặc biệt, trong 7 nhóm đất chính của tỉnh, nhóm đất đỏ ba zan có 386.000ha, tập trung chủ yếu vùng tây Trường Sơn (thành phố Pleiku và các huyện Mang Yang, Đăk Đoa, Chư Sê, Chư Pưh, Chư Prông, Đức Cơ, Chư Păh, Ia Grai) có thể canh tác các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, bông vải...Các huyện, thị xã phía đông của tỉnh (An Khê, Kbang, Kông Chro, Đăk Pơ, Ayun Pa, Ia Pa, Phú Thiện, Krông Pa), do chịu ảnh hưởng khí hậu của vùng đồng bằng giáp ranh (Bình Định, Phú Yên) nên thích hợp cho các loại cây trồng ngắn ngày và là vùng nguyên liệu mía chính cung cấp cho hai nhà máy đường An Khê và Ayun Pa với công suất 4.000 tấn mía cây/năm. Riêng huyện Đăk Pơ và thị xã An Khê còn là vựa rau, hàng ngày cung cấp trên 100 tấn rau các loại cho các tỉnh thuộc khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Các huyện phía đông nam của tỉnh như Phú Thiện, Ia Pa và thị xã Ayun Pa, với lợi thế có hồ thuỷ lợi Ayun Hạ, là một trong những vựa lúa của cả khu vực Tây Nguyên. Với diện tích 1.112.452,8 ha đất lâm nghiệp, trong đó, có 773.447,7 ha đất cho rừng sản xuất (chiếm 69,5% diện tích đất lâm nghiệp)  nên tỉnh Gia Lai  có tiềm năng lớn phát triển lâm nghiệp. Hàng năm, các sản phẩm gỗ khai thác từ rừng (kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng) làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ, bột giấy với quy mô lớn và chất lượng cao. Gia Lai còn có quỹ đất lớn để phát triển rừng trồng, rừng nguyên liệu giấy...
2. Công nghiệp:
Trên cơ sở nguồn tài nguyên nông lâm nghiệp và khoáng sản, mở ra triển vọng phát triển các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến nông lâm sản với quy mô vừa và lớn.
Trong sản xuất vật liệu xây dựng, trước hết với nguồn đá vôi tại chỗ có thể phát triển sản xuất xi măng phục vụ cho một phần nhu cầu các tỉnh phía Bắc Tây Nguyên và các tỉnh Đông Bắc Campuchia. Hiện có hai nhà máy sản xuất xi măng với công suất 14 vạn tấn/năm, đến nay đã phát huy vượt công suất. Với nguồn đá Granit sẵn có, phong phú về màu sắc có thể chế biến ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu trong tỉnh và xuất khẩu.
Trong chế biến nông lâm sản: với trữ lượng gỗ lớn trong tỉnh và khả năng nhập khẩu gỗ từ các nước Đông Nam Á đảm bảo ổn định nguyên liệu cho sản xuất chế biến các mặt hàng gỗ lâu dài, chế biến song mây, sản xuất bột giấy. Từ mủ cao su có thể chế biến các sản phẩm cao su dân dụng và công nghiệp chất lượng cao; Chế biến cà phê xuất khẩu, chế biến đường, chế biến dầu thực vật, chế biến sắn, chế biến hoa quả và súc sản đóng hộp. Ngoài ra còn có thể phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng khi đã xác định được địa bàn và trữ lượng cho phép.
Khu công nghiệp Trà Đa: với diện tích 124,5 ha, có 30 dự án đầu tư, lấp đầy trên 100% diện tích với tổng số vốn đăng ký 818 tỷ đồng. Đến nay có 21 nhà máy đã đi vào hoạt động.
Tỉnh đang quy hoạch khu công nghiệp Tây Pleiku với diện tích 284 ha (tính đến năm 2015 và mở rộng gần 400 ha tính đến năm 2020). Ngoài ra, trên mỗi địa bàn huyện, thị xã, thành phố của tỉnh cũng đang quy hoạch xây dựng ít nhất một cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có vị trí, điều kiện thuận lợi nhiều mặt cho các nhà đầu tư triển khai thực hiện dự án.
Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh với diện tích 110 ha và mở rộng đến 210 ha (tính đến 2020), hiện đã có 3 doanh nghiệp và 20 hộ kinh doanh. Đến nay cũng đang được tiếp tục đầu tư xây dựng để hoàn thiện cơ sở hạ tầng.
3. Thủy điện:
Với địa hình cao và nhiều sông suối, Gia Lai là một trong những nơi tập trung khá nhiều các nhà máy thủy điện lớn nhỏ. Trên địa bàn tỉnh hiện có 82 dự án thuỷ điện, trong đó có 7 công trình do EVN đầu tư với tổng công suất 1.841 MW:
Thuỷ điện Ia Ly: Công trình được xây dựng trên dòng sông Sê San, khởi công năm 1993 và hoàn thành vào năm 2002, là công trình thuỷ điện lớn thứ 2 của Việt Nam sau công trình thuỷ điện Hoà Bình trên sông Đà. Địa điểm: huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Lòng hồ thuỷ điện Ialy phần lớn nằm trên địa phận huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, thuộc lưu vực sông Pô Kô và Đắk Bla, công suất thiết kế 720 MW. Sản lượng điện bình quân hàng năm: 3,7 tỷ KWh.
Thủy điện Sê San 3: Công trình được xây dựng trên dòng sông Sê San thuộc địa phận xã Ia Mnông, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai và xã Ia Ly, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum với công suất lắp đặt là 260 MW, sản lượng điện trung bình hàng năm 1,127 tỉ KWh. Thời gian thi công: 2002 - 2006.
Thủy điện Sê San 3A: là công trình cấp II với công suất lắp máy là 180MW, điện lượng trung bình hàng năm là 479,3 triệu KWh/năm. Công trình được xây dựng tại xã Mơ Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum và xã Ia Khai, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai. Khởi công ngày 05/04/2003, hoàn thành: tháng 29/12/2006.
Thủy điện Sê San 4: Công trình được xây dựng trên dòng sông Sê San, gồm 3 tổ máy với tổng công suất 360 MW, sản lượng điện cung cấp lên lưới quốc gia 1,5 tỷ KWh/năm, được khởi công vào ngày 26,/11/2004, hoàn thành tháng 4/2010.
Thuỷ điện Sông Ba Hạ: nằm ở bậc thang cuối cùng trên bậc thang sông Ba – là một trong những thủy điện lớn nhất của miền Trung được quy hoạch trên địa bàn 15 xã miền núi thuộc hai huyện Sông Hinh (tỉnh Phú Yên) và huyện Krông Pa (tỉnh Gia Lai). Công trình được xây dựng nằm cách tỉnh lỵ Phú Yên chừng 70 cây số về phía tây. Nhà máy thủy điện sông Ba Hạ có hai tổ máy với công suất 220MW, sản lượng điện trung bình 825 triệu KWh/năm. Thời gian hoàn thành công trình: 2004 - 2009. Ngoài cung cấp điện, công trình thuỷ điện sông Ba Hạ còn tham gia cắt lũ và cung cấp nước tưới cho vùng hạ lưu, góp phần phát triển kinh tế - xã hội khu vực 2 tỉnh Phú Yên và Gia Lai.
Thuỷ điện An Khê - Ka Nak, Thuỷ điện Sê San 4A: Hai công trình đang được đầu tư xây dựng. Ngoài ra, Gia Lai đã có nhiều chính sách thu hút các nhà đầu tư để xây dựng 75 công trình thủy điện vừa và nhỏ với tổng công suất lắp máy gần 494,9 MW, trong đó 21 thuỷ điện đang vận hành với tổng công suất 57,215 MW, 17 thuỷ điện đã khởi công xây dựng với tổng công suất 208,29 MW, 27 thuỷ điện chưa khởi công với tổng công suất 200,5 MW, 10 thuỷ điện đã đưa vào quy hoạch.
4. Du lịch - dịch vụ:
Xuất phát từ điều kiện địa lý, là vùng núi cao có nhiều cảnh quan tự nhiên cũng như nhân tạo, nên Gia Lai có tiềm năng du lịch rất phong phú.
Gia Lai là đầu nguồn của hệ thống sông Ba  đổ về miền duyên hải Trung Bộ và hệ thống sông Sê San đổ về Cam-pu-chia cùng nhiều sông, suối lớn nhỏ khác. Gia Lai còn có nhiều hồ, ghềnh thác, đèo và những cánh rừng nguyên sinh tạo nên những cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ thơ mộng, mang đậm nét hoang sơ nguyên thủy của núi rừng Tây Nguyên. Đó là rừng nhiệt đới Kon Ka Kinh và Kon Chư Răng nơi có nhiều động vật quí hiếm; thác Xung Khoeng hoang dã ở huyện Chư Prông; thác Phú Cường thơ mộng. Nhiều danh thắng khác như suối Đá, bến Mộng trên sông Pa ở Ayun Pa, Biển Hồ (hồ Tơ Nưng) trên núi mênh mông và phẳng lặng, được ví như là đôi mắt của thành phố Pleiku. Nhiều núi đồi như Cổng Trời MangYang, núi Hàm Rồng cao 1.092m ở Chư Prông mà đỉnh là miệng của một núi lửa đã tắt. Cảnh quang nhân tạo có các rừng cao su, đồi chè, cà phê bạt ngàn. Kết hợp với các tuyến đường rừng, có các tuyến dã ngoại bằng thuyền trên sông, cưỡi voi xuyên rừng….
Bên cạnh sự hấp dẫn của thiên nhiên hùng vĩ, ở Gia Lai còn có nền văn hóa lâu đời đầm đà bản sắc núi rừng của đồng bào các dân tộc, chủ yếu là Jrai và Bahnar thể hiện qua kiến trúc nhà rông, nhà sàn, nhà mồ, qua lễ hội truyền thống, qua y phục và nhạc cụ...
Các lễ hội đặc sắc ở Gia Lai: lễ Pơ Thi (Bỏ Mả), lễ hội đâm trâu, ...trang phục ngày hội được trang trí hoa văn nhiều màu sắc thần bí, các điệu múa xoang, múa dân gian trên nền âm thanh vang vọng của các loại nhạc cụ riêng của từng dân tộc như cồng chiêng, tù và, đàn Trưng, đàn đá... Đến Gia Lai du khách còn được xem những khu nhà mồ dân tộc với những bức tượng đủ loại và những nghi lễ  theo tín ngưỡng đa thần còn đậm nét nguyên thủy.
Thêm vào đó, Gia Lai có bề dày lịch sử và truyền thống cách mạng hào hùng được thể hiện qua các di tích lịch sử văn hóa như khu Tây Sơn thượng đạo, di tích căn cứ địa của anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ; làng kháng chiến Stơr quê hương của anh hùng Núp, nhà lao Pleiku. Nhiều địa danh chiến trường xưa của như Pleime, Cheo Reo, Ia Răng, Đăk Pơ, Ka Nak đã đi vào lịch sử.
Những điểm du lịch, khu vui chơi giải trí trong thành phố Pleiku có hồ Diên Hồng, công viên Đồng xanh, khu du lịch và lễ hội Về Nguồn, công viên Lý Tự Trọng, quảng trường 17/3, sân vận động, rạp chiếu phim và rất nhiều quán cà phê mà vô tình hay hữu ý đã tập trung thành phố như phố cà phê trên đường Wừu. Có rất nhiều thác quanh thành phố như thác Phú Cường, thác Lồ Ô, thác Chín tầng,...thuận lợi cho du khách tham quan, thưởng ngoạn.
5. Kết cấu hạ tầng
a. Đường bộ:
Án ngữ trên đỉnh cao nguyên Pleiku hùng vỹ, Gia lai như nóc nhà của đồng bằng Bình Định, Phú Yên, Cam Pu Chia và là giao điểm của nhiều tuyến đường quốc lộ quan trọng với tổng chiều dài 503 km.
Quốc lộ 14, chạy theo hướng bắc - nam, là con đường huyết mạch của Tây nguyên, nối Gia Lai với Kon Tum, Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng về phía Bắc và Đắk Lắk, Đắk Nông, các tỉnh vùng Đông Nam Bộ về phía Nam, đoạn qua tỉnh Gia Lai dài 112 km.
Quốc lộ 19 chạy theo hướng đông - tây, nối  cảng Quy Nhơn, Bình Định dài 180Km về phía đông với cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh (Đức Cơ) để vào tỉnh Ratanakiri, Campuchia về phía tây. Phần đường quốc lộ 19 trên đất Gia Lai dài 196 km. Quốc lộ quan trọng này được hình thành trên cơ sở con đường giao thương cổ nhất giữa bộ phận dân cư ở vùng đồng bằng ven biển nam Trung Bộ với các tỉnh bắc Tây Nguyên từ trước thế kỷ XX.
Quốc lộ 25 nối  quốc lộ 1 (thành phố Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên) với quốc lộ 14 tại Mỹ Thạch (huyện Chư Sê). Đoạn quốc lộ 25 thuộc địa bàn tỉnh Gia Lai có chiều dài 111 km, qua các huyện đông nam của tỉnh như Krông Pa, thị xã Ayun Pa, Phú Thiện và phía đông Chư Sê. Ngoài ra, đường Hồ Chí Minh cũng đi qua địa bàn tỉnh Gia Lai. Các quốc lộ 14, 25 nối Gia Lai với các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải miền Trung rất thuận tiện cho vận chuyển hàng hóa đến hải cảng để xuất khẩu và các trung tâm kinh tế lớn của cả nước.
Gia Lai còn có 11 tuyến tỉnh lộ quan trọng với tổng chiều dài 473 km:
- Tỉnh lộ 662 (76km), từ quốc lộ 19 tại Đá Chẻ (huyyện Đăk Pơ), đi về phía nam, nối vào quốc lộ 25 tại phía tây thị xã Ayun Pa.
- Tỉnh lộ 663 (23 km) từ quốc lộ 19 nối dài (đoạn Bàu Cạn) chạy qua huyện Chư Prông, nối vào tỉnh lộ 675 tại Phú Mỹ (huyện Chư Sê).
- Tỉnh lộ 664 (53 km), từ quốc lộ 14 tại thành phố Pleiku qua huyện Ia Grai, hướng về phía tây, nối vào quốc lộ 14C tại sông Sê San.
- Tỉnh lộ 668 (17 km), từ quốc lộ 25, đi về phía nam thị xã Ayun Pa, huyện Phú Thiện đi về tỉnh Đăk Lăk.
- Tỉnh lộ 669 (90 km) từ quốc lộ 19 tại thị xã An Khê, đi về phía bắc dọc theo huyện Kbang và huyên Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
- Tỉnh lộ 670 (46 km), từ quốc lộ 19 tại Kon Dỡng (huyện Mang Yang) nối và quốc lộ 14 đoạn qua xã Ia Khươl (huyện Chư Păh nơi tiếp giáp giữa tỉnh Gia Lai và tinh Kon Tum).
- Tỉnh lộ 671 (24 km) từ quốc lộ 14, đoạn qua ngả tư Biển Hồ nối và tỉnh lộ 670 tại xã Nam Yang, huyện Đăk Đoa.
- Tỉnh lộ 672 (29 km) là đường vành đai thành phố Pleiku.
- Tỉnh lộ 673 (23 km), từ quốc lộ 14, tại thị trấn Phú Hoà, huyện Chư Păh vào nhà máy thuỷ điện Ia Ly.
- Tỉnh lộ 674 (32 km) nối từ quốc lộ 19 tại trung tâm thị xã An Khê đến huyện Kông Chro.
- Tỉnh lộ 675 (60 km), từ quốc lộ 19 tại thành phố Pleiku nối vào quốc lộ 14C tại Ia Men.
Hiện nay, tất cả các tuyến đường xuống các trung tâm huyện đã được trải nhựa, hầu hết các trung tâm xã đã có đường ôtô đến.
b. Đường hàng không:
Sân bay Pleiku (còn gọi là sân bay Cù Hanh) là một sân bay tương đối nhỏ, có từ thời Pháp, cách trung tâm thành phố khoảng 5 km. Sân bay Pleiku đang hoạt động, mỗi tuần có 7 chuyến từ Pleiku đi thành phố Hồ Chí Minh  - Đà Nẵng - Hà Nội và ngược lại. Sân bay đang được đầu tư nâng cấp để tiếp nhận các máy bay lớn (A320).
c. Bưu chính - viễn thông - truyền hình
Toàn tỉnh có 07 trạm điều khiển thông tin di động. Hệ thống các mạng điện thoại di động đảm bảo thông tin thông suốt; dịch vụ điện thoại, Internet 3G đã được đưa vào sử dụng.
Trên địa bàn tỉnh, ngoài các kênh truyền hình miễn phí, hiện đã có 3 loại dịch vụ truyền hình trả tiền; tỉnh cũng đang xúc tiến đưa sóng truyền hình Gia Lai lên vệ tinh.
Hệ thống nhà hàng, khách sạn: Toàn tỉnh có 1 khách sạn 4 sao, 1 khách sạn 3 sao, 3 khách sạn 2 sao, 4 khách sạn 1 sao và hàng loạt nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ khác cơ bản đáp ứng được nhu cầu ăn uống, nghỉ ngơi, đi lại của du khách.
Nguồn nhân lực: Dân số tỉnh Gia Lai có 1.302.680 người (số liệu thống kê năm 2010) dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 53%; lao động đã qua đào tạo chiếm trên 30% tổng số lao động xã hội. Tỷ lệ tăng dân số và lao động hàng năm khá cao, giá nhân công rẻ nhưng rất cần tăng cường đào tạo về văn hóa và chuyên môn kỹ thuật.
 

Gia Lai thế và lực


- Khí hậu Gia Lai có khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, một năm có hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Vùng Tây Trường Sơn có lượng mưa trung bình từ 2.200 đến 2.500 mm, vùng Đông Trường Sơn từ 1.200 đến 1.750 mm. Nhiệt độ trung bình năm là 22-25ºC .
- Đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã, thành phố: Gồm có 1 thành phố, 2 thị xã và 14 huyện. Trong đó có 222 xã, phường, thị trấn (24 phường, 12 thị trấn và 186 xã theo thống kê năm 2010).
Điều kiện tự nhiên
- Gia Lai nằm trên một phần của nền đá cổ rộng lớn, dày trên 4.000 m, thuộc Địa khối Kon Tum. Cuối kỷ Nêogen sang kỷ Đệ Tứ (cách ngày nay khoảng 1,6 triệu đến 0,7 triệu năm) các chuyển động tân kiến tạo làm vỏ trái đất nứt khá sâu, khiến các núi lửa hoạt động mạnh, phun các lớp bazan phủ dày từ vài chục đến 500m. Dung nham núi lửa đã lấp đầy các hố trũng của bề mặt địa hình, tạo nên cao nguyên rộng lớn và khá bằng phẳng. Địa hình toàn tỉnh có hướng thấp dần từ bắc xuống nam, thoải dần từ đỉnh (là trục quốc lộ 14) sang hai phía đông và tây với các đồi núi, cao nguyên và thung lũng xen kẽ nhau khá phức tạp.
- Núi ở Gia Lai phần lớn nằm ở phía bắc, địa hình núi phân cách mạnh. Từ Kông (đỉnh) Ka King (cao 1761m) thuộc địa bàn huyện Kbang, chạy về hướng nam núi chia thành hai hệ:
- Hệ thứ nhất (qua đèo An Khê - thuộc dãy An Khê): chạy dọc phía Đông của tỉnh tạo thành dải phân cách tự nhiên giữa Gia Lai với các tỉnh ven biển miền Trung và thấp dần khi vào vùng đồng bằng Ayun Pa, Krông Pa.
- Hệ thứ hai (qua đèo Mang Yang): chia Gia Lai thành hai phần là Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn với những đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng, môi sinh khác biệt.
- Ngoài hai hệ núi trên, bề mặt  các dạng địa hình khác của Gia Lai như các cao nguyên, những thung lũng đồng bằng cũng đều rải rác có núi.
- Cao nguyên là dạng địa hình phổ biến và quan trọng của Gia Lai. Toàn tỉnh có hai cao nguyên:
+ Cao nguyên Kon Hơnờng ở phía Đông Trường Sơn, diện tích khoảng 1.250 km2, trải dài tư Nam huyện Kon Plông (tỉnh Kon Tum) và chiếm gần trọn địa bàn huyện Kbang, độ cao từ 50 - 80 m, thấp dần từ bắc xuống nam, độ dốc trung bình từ 8 - 120.
+ Cao nguyên Pleiku có diện tích 4.550 km2 là một trong hai cao nguyên rộng lớn nhất Tây Nguyên, kéo dài từ Nam thành phố Kon Tum xuống tận khối Chư Păh và từ đèo Mang Yang sang tận biên giới Cam Pu Chia, đỉnh ở núi Hdrung (núi Hàm Rồng) cao 1.028 m, phía bắc và đông bắc cao từ 750 - 800m về phía nam chỉ còn cao 400 m.
- Các vùng trũng của Gia Lai sớm được con người khai thác để sản xuất lương thực. Hầu hết các vùng trũng nằm ở phía đông của tỉnh:
- Vùng trũng An Khê có diện tích 1.312 Km2, kéo dài theo hướng Đông bắc - Tây nam. Phía Bắc giáp cao nguyên Kon Hơnờng, nam giáp vùng trũng Cheo Reo - Phú Túc và vùng núi thấp Chư Trian, ranh giới phía đông và phía tây là hai hệ núi chạy qua đèo  An Khê và đèo Mang Yang.
- Vùng trũng Cheo Reo- Phú Túc nằm trọn trong địa hào sông Ba với diện tích 1.474km2, tiếp nối  với vùng trũng An Khê và nằm về phía đông nam tỉnh, độ cao trung bình 180 - 200 m.
- Đất đai tỉnh Gia Lai có 26 loại đất, gồm 7 nhóm chính:
+ Nhóm đất phù sa có diện tích 46.430 ha, chiếm 3% diện tích tự nhiên, phân bố ở nơi có địa hình bằng phẳng, gần nguồn nước (sông suối lớn), tầng đất dày. Đây là loại đất tốt, thích hợp cho việc trồng các loại rau, hoa màu, lương thực.
+ Nhóm đất xám có diện tích 364.806 ha, chiếm 23,55% diện tích tự nhiên, tập trung thành vùng dọc theo sông Ba, sông Ayun ở tây nam huyện Chư Prông và các huyện, thị: An Khê, Đăk Pơ, Ayun Pa, Ia Pa. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, dễ thoát nước, khả năng giữ chất dinh dưỡng kém nên nghèo dinh dưỡng. Loại đất này thích hợp với những loại cây công nghiệp ngắn ngày như mía, vừng, sắn, thuốc lá, đậu đỗ các loại hoặc trồng rừng để giữ đất.
+ Nhóm đất đen có tổng diện tích 27.870 ha, chiếm 1,8% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở các huyện Mang Yang, Chư Prông, Chư Sê và Đức Cơ. Trên diện tích này thích hợp cho việc trồng rừng, khôi phục thảm thực vật để bảo vệ đất.
+ Nhóm đất đỏ vàng có diện tích 781.765 ha, chiếm 50,44% diện tích tự nhiên, tập trung ở các huyện trên cao nguyên Pleiku và cao nguyên Kon Hơnờng, thích hợp cho việc trồng các cây công nghiệp dài ngày như cà phê, chè, hồ tiêu, cao su và cây công nghiệp ngắn ngày, hoa màu, lương thực.
+ Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi có diện tích 175.582 ha chiếm 11,35% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở vùng núi phía bắc và đông bắc tỉnh, có độ cao từ 1000 m trở lên. Loại đất này chủ yếu dành cho phát triển lâm nghiệp.
+ Nhóm đất thung lũng dốc tụ có diện tích 14.140 ha, chiếm 0,91% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở độ cao từ 300 - 700 m, độ dốc từ 3 - 800, trên địa bàn các huyện Mang Yang, Chư Sê, vùng Ayun Pa và thành phố Pleiku.
+ Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá có diện tích 113.423 ha, chiếm 7,32% diện tích tự nhiên, tập trung ở các huyện thị: An Khê, Ayun Pa, Phú Thiện, Krông Pa. Nhóm đất này không có khả năng khai thác để phất triển nông nghiệp, thích hợp cho việc trồng rừng bảo vệ đất.
- Sông ngòi:Tài nguyên nước ở Gia Lai có tổng trữ lượng khoảng 23 tỉ m3 nước, phân bố trên các hệ thống sông chính là hệ thống sông Ba, hệ thống sông Sê San:
+ Hệ thống sông Ba: Sông Ba dài 304 km (dài thứ hai trên Tây Nguyên), bắt nguồn từ núi Ngok Rô ở độ cao 1.240 m trên dãy Ngok Linh (tỉnh Kon Tum), chảy theo sườn phía đông của dãy Trường Sơn qua các huyện thị Kbang, An Khê, Kông Chro, Ia Pa, Ayun Pa và Krông Pa của tỉnh Gia Lai trước khi đổ về tỉnh Phú Yên ra biển. Các nhánh chính của sông Ba là sông Ayun (hợp lưu với sông Ba tại Ayun Pa), sông Krông Năng (hợp lưu tại Nam huyện Kông Pa) và sông Hinh.
+ Hệ thống sông Sê San: Bắt nguồn từ những đỉnh núi cao nhất của dãy Trường Sơn, núi Tiêu (1.988 m), Ngok Linh (2.598 m), có hai nhánh lớn là sông Đăk Bla, Pôkô và một nhánh nhỏ là sông Sa Thầy, chảy qua các huyện Đăk Đoa, Chư Păh, Ia Grai, Đức Cơ trước khi đỏ về Cam Pu Chia.
Ngoài những hệ thống sông chính, Gia Lai còn có các nhánh sông Srê Pôk Thuỷ điện Sê San 3A, Ia Đrăng, Ia Lôp đều bắt nguồn từ núi Hdrung chảy qua các huyện Chư Sê, Chư Prông của tỉnh và nhiều sông, suối, hồ lớn nhỏ khác cung cấp nước sinh hoạt cho người và nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Hệ thống sông suối chảy qua địa bàn còn là nguồn thuỷ năng có trữ năng lý thuyết khoảng 10,5 - 11 tỷ MW; trữ năng kinh tế kỹ thuật 7,1 tỷ KW.
- Rừng: Tỉnh Gia Lai có diện tích đất lâm nghiệp là 1.112.452,8 ha, chiếm 72% tổng diện tích đất tự nhiên, có độ che phủ rừng là 47% và là tỉnh có độ che phủ rừng cao thứ hai trong cả nước. Trong đó, diện tích đất lâm nghiệp cho rừng đặc dụng là 61.364,6 ha (chiếm 5,5% diện tích đất lâm nghiệp), diện tích đất lâm nghiệp cho rừng phòng hộ 277.613,5 ha (chiếm 23,5% diện tích đất lâm nghiệp), diện tích đất lâm nghiệp cho rừng sản xuất là 773.447,7 ha (chiếm 69,5% diện tích đất lâm nghiệp).
- Rừng Gia Lai có nhiều gỗ quý như trắc, hương, cẩm lai, hoàng đàn..., nhiều lâm đặc sản dưới tán rừng  như thổ phục linh, cốt toái, sa nhân, mã tiền... và các loại cây cho dầu, nhựa...
- Cùng với hệ thực vật, động vật rừng Gia Lai cũng rất phong phú và đa dạng cả về giống, loài và số lượng cá thể. Đặc biệt còn có nhiều loài thú quý hiếm như bò tót, hổ, voi, sói đỏ, mèo gấm, gấu ngựa, vượn đen, voọc ngũ sắc... Các loại chim hạc cổ trắng, công, trĩ sao, gà lôi vằn, gà tiền mặt đỏ. Đặc biệt, loài khướu tai hung mới được phát hiện trong vườn quốc gia kông Kah King.
- Khoáng sản: Gia Lai có nhiều loại khoáng sản, nhưng trữ lượng nhiều hơn cả là nguyên vật liệu xây dựng, bôxit, vàng và đá quý. Khoáng sản kim loại còn có sắt, kẽm, asen và vofram. Khoáng sản phi kim loại có nhiều nhất là đá granit, đá vôi, đá hoa, đất sét, cát và sạn sỏi.
- Bô xít, đã phát hiện một mỏ và 4 điểm nằm ở vùng Kon Hà Nừng đã thăm dò và đánh giá trữ lượng cấp C2 là 210,5 triệu tấn với hàm lượng A12O3: 33,76%- 51,75%; SiO2: 14,04%. Ngoài ra còn có sắt, thiết, chì... nhưng với quy mô nhỏ chưa được điều tra kỹ.   
- Vàng, phát hiện trên 73 điểm, trong đó có 66 điểm quặng hoá gốc và 6 điểm sa khoáng, các vùng có triển vọng là Kông Chro, Ia Mơ, Krông Pa, Ayun Pa.
- Đá vôi, phát hiện được 6 điểm, điểm có triển vọng nhất là đá vôi Chư Sê, trữ lượng khu B cấp C1 + C2 là 22 triệu tấn, đang được khai thác để phục vụ cho 02 nhà máy xi măng trên địa bàn tỉnh.
- Khoáng sản làm vật liệu xây dựng khác như đá bazan ở đèo Chư Sê, Pleiku, Chư Păh. Đá granit có trữ lượng 90,1 triệu m3.
- Đất sét làm gạch ngói phân bổ rộng khắp toàn tỉnh, nhưng tập trung lớn ở Ayun Pa, An Khê...
Nguồn nhân lực
- Dân số tỉnh Gia Lai có 1.302.680 người (số liệu thống kê năm 2010) bao gồm 34 cộng đồng dân tộc cùng sinh sống. Trong đó, người Việt (Kinh) chiếm 52% dân số. Còn lại là các dân tộc Jrai (33,5%), Bahnar (13,7%), Giẻ-Triêng, Xơ-đăng, Thái, Mường...Dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 53%; lao động đã qua đào tạo chiếm trên 30% tổng số lao động xã hội. Tỷ lệ tăng dân số và lao động hàng năm khá cao, giá nhân công rẻ nhưng rất cần tăng cường đào tạo về văn hóa và chuyên môn kỹ thuật.​
(Theo www.gialai.gov.vn có chỉnh sửa và lấy số liệu của niên giám thống kê Gia Lai 2010)
(Nguồn www.gialai.gov.vn có chỉnh sửa và lấy số liệu của niên giám thống kê Gia Lai 2010)