Đại biểu Siu Hương, Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh: Cần giải pháp căn cơ để giải quyết tình trạng chậm ban hành văn bản quy phạm pháp luật
25/05/2024
Sáng 25/5/2024, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội thảo luận ở hội trường về Báo cáo của Đoàn giám sát và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kết quả giám sát chuyên đề “việc thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và các nghị quyết của Quốc hội về một số dự án quan trọng quốc gia đến hết năm 2023”. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành nội dung phiên họp.
Phát biểu tại phiên họp, đại biểu Siu Hương nhận thấy, Báo cáo của Đoàn giám sát đã đánh giá toàn diện, đầy đủ, cụ thể việc thực hiện 5 quan điểm, 3 mục tiêu, chỉ tiêu quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 có thể khẳng định, việc ban hành và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 là quyết sách đúng đắn, kịp thời của Quốc hội trước hoàn cảnh, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid - 19.
Đại biểu Siu Hương, Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Gia Lai phát biểu
Tuy nhiên, việc ban hành Nghị quyết với nhiều chính sách chưa có tiền lệ, thời gian để xây dựng, đánh giá tác động trước khi ban hành ngắn nên quá trình thực hiện chính sách cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế dẫn đến kết quả thực hiện chính sách chưa đạt được như kỳ vọng. Đại biểu chia sẻ với những khó khăn, vướng mắc, thách thức trong quá trình thực hiện chính sách của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương trong bối cảnh dịch Covid-19 và tham gia một số ý kiến như sau:
Thứ nhất, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới việc thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15, đại biểu Siu Hương đánh giá Chính phủ, các Bộ, ngành đã nỗ lực ban hành đủ 20/20 văn bản theo thẩm quyền để thực hiện các chính sách theo yêu cầu tại Nghị quyết. Tuy nhiên, đại biểu chỉ ra rằng có 11 văn bản ban hành chậm so với tiến độ đề ra, trong đó có 2 văn bản hướng dẫn của Bộ chậm đến 7 tháng, trong khi Nghị quyết chỉ thực hiện trong thời gian 2 năm. Việc này làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc tổ chức thực hiện, giảm ý nghĩa, hiệu quả của chính sách. Chính vì vậy, đại biểu đề nghị phân tích, đánh giá rút kinh nghiệm trong việc chậm ban hành văn bản hướng dẫn; làm rõ trách nhiệm của cơ quan liên quan cũng như cần nghiên cứu giải pháp căn cơ hơn để có hướng giải quyết việc chậm ban hành văn bản hướng dẫn.
Thứ hai, về việc sử dụng quỹ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam: Việc sử dụng 1.000 tỷ đồng từ quỹ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam để trang bị máy tính bảng chưa thực hiện được, một trong các nguyên nhân chủ quan là việc trao đổi phối hợp giữa các Bộ, ngành chưa đạt được sự đồng thuận, thống nhất. Bộ Thông tin và Truyền thông đã trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị phương án chuyển hỗ trợ máy tính bảng bao gồm điều chỉnh mục tiêu và điều chỉnh loại thiết bị sang hỗ trợ điện thoại thông minh cho hộ gia đình nghèo, hộ cận nghèo. Việc chuyển hướng từ hỗ trợ máy tính bảng sang hỗ trợ điện thoại thông minh phù hợp với quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 14 Nghị định số 25/2011/NĐ-CP ngày 06/4/2011 của Chính phủ về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông năm 2009 và phù hợp với thực tế. Do đó, đại biểu kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét thống nhất việc chuyển hướng hỗ trợ máy tính bảng sang hỗ trợ điện thoại thông minh để thực hiện chương trình.
Thứ ba, về nhiệm vụ giải pháp của báo cáo: Đại biểu thống nhất cao với các nhiệm vụ giải pháp mà đoàn giám sát đã kiến nghị. Tuy nhiên, đại biểu đề nghị bổ sung nội dung kiến nghị của Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành nghiên cứu theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các văn bản pháp luật nêu tại phụ lục 5 về tổng hợp kiến nghị hoàn thiện văn bản pháp luật của báo cáo giám sát.
Hoàng Sơn (tổng hợp)