> Tin tức - Sự kiện > Tin hoạt động ĐĐBQH > Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước

Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước

09/04/2016
Tình hình, kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015

Tình hình 5 năm qua có rất nhiều khó khăn, thử thách, kinh tế trong nước và quốc tế diễn biến phức tạp, khủng hoảng kinh tế xảy ra ở nhiều quốc gia, khu vực, hàng loạt doanh nghiệp Việt Nam bị phá sản hoặc dừng hoạt động, tỷ lệ lạm phát rất cao...

Nhìn tổng quát lại trong 5 năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức rất lớn nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị và toàn dân, toàn quân, kinh tế - xã hội nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng trên các lĩnh vực, hoàn thành nhiều chỉ tiêu kế hoạch đặt ra.
Qua thảo luận báo cáo của Chính phủ, nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội ghi nhận và thống nhất với đánh giá của Chính phủ về những kết quả nổi bật như: Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý. Các đột phá chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ có bước phát triển. Đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đạt kết quả quan trọng.

Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt được cải thiện. Tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết quả tích cực. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm. Phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.

Cải cách hành chính có bước tiến bộ. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả. Khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính trị - xã hội ổn định. Vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng lên. Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn trong giai đoạn tới.

Kết quả đạt được trong 5 năm qua là do sự cố gắng cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp và của cả hệ thống chính trị, đã tích cực thay đổi tư duy, nhận thức để thích ứng với điều kiện, hoàn cảnh biến đổi; tiếp tục kiên trì đổi mới, thực hiện các đột phá chiến lược.

Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm vẫn còn một số hạn chế như: Việc tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đáp ứng yêu cầu. Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc. Kinh tế phục hồi còn chậm. Một số chỉ tiêu đạt thấp (như: GDP bình quân đầu người, vốn đầu tư phát triển). Tích luỹ hạn chế, nhiều cân đối không vững chắc; bội chi ngân sách tăng cao; điều hành các kế hoạch dài hạn của Chính phủ còn nhiều bất cập, nhất là trong việc thực hiện đột phá về nguồn nhân lực; chất lượng sống của người dân thấp, đối mặt với nhiều nguy cơ về vệ sinh an toàn thực phẩm, trật tự an ninh, thu nhập, việc làm…
Năng suất, chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp. Sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Môi trường kinh doanh còn nhiều hạn chế. Thực hiện ba đột phá chiến lược và tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn vướng mắc, chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với nhiều nước trong khu vực chậm được thu hẹp.

Văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường nhiều mặt còn yếu kém, khắc phục còn chậm. Khoảng cách giàu nghèo còn lớn. Bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh trật tự, an toàn xã hội còn nhiều khó khăn, thách thức. Chưa khai thác thật tốt những cơ hội và điều kiện thuận lợi trong hội nhập quốc tế.

Hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội nhiều mặt còn hạn chế. Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng chưa được đẩy lùi.

Những tồn tại, hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh, những diễn biến mới rất phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, tình hình căng thẳng do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.

Song trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan, chủ yếu là: Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là về vai trò của Nhà nước, kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân, thị trường quyền sử dụng đất, quản lý giá cả, phân bổ nguồn lực, cơ chế cung ứng dịch vụ công, giá dịch vụ trong giáo dục, y tế,... chưa đủ rõ, còn khác nhau, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới về phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.

Cac-ĐBQH-tinh-Gia-Lai-hop,-thao-luan-o-to.JPG
Các ĐBQH tỉnh Gia Lai họp, thảo luận ở tổ

Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, cơ chế, chính sách và trong chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế - xã hội nhiều mặt còn lúng túng, thiếu nhất quán, chưa thật phù hợp với kinh tế thị trường nên hiệu quả chưa cao, chưa tạo được động lực mạnh mẽ để huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Hệ thống văn bản pháp luật chưa được hoàn thiện. Việc hướng dẫn các chính sách chưa kịp thời và đồng bộ. Tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước nhiều mặt còn hạn chế; nhiều luật, pháp lệnh, nghị định,… chậm đi vào cuộc sống. Việc thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách trong nhiều trường hợp còn chậm, chất lượng thấp, tính khả thi chưa cao.

Chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện và sơ kết, tổng kết thực tiễn. Chưa thay thế được kịp thời những cán bộ không đủ phẩm chất, năng lực, thiếu trách nhiệm, thực thi kém hiệu quả trong triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Phương thức lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội chưa thật phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Khả năng phân tích, dự báo còn bất cập. Phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và việc đào tạo, sử dụng cán bộ còn nhiều mặt hạn chế. Tính thượng tôn pháp luật, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.

Các biện pháp thực hiện thiếu cụ thể và chưa kiên quyết, chưa bắt kịp với yêu cầu của thực tiễn. Quản lý thị trường, giá cả, điều hòa cung cầu một số mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống chưa kịp thời, chưa đồng bộ, kém hiệu quả.

Các chính sách xã hội hóa chậm được đổi mới, thiếu cơ chế rõ ràng, minh bạch, chưa khuyến khích các nhà đầu tư vốn để phát triển các lĩnh vực xã hội.

Dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 20121

Bối cảnh quốc tế trong thời gian tới diễn biến nhanh, phức tạp, tác động mạnh đến kinh tế, xã hội nước ta. Hòa bình và hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài nguyên, lãnh thổ và hoạt động khủng bố tiếp tục gia tăng.

ĐBQH-Le-Thi-Nga-(Thai-Nguyen)-phat-bieu-thao-luan-ve-KT-XH-sang-01-4-2016.jpg
ĐBQH Lê Thị Nga (Thái Nguyên) phát biểu thảo luận về KT-XH sáng 01-4-2016

Kinh tế thế giới phục hồi chậm, khó dự báo, do giá dầu thô giảm xuống quá thấp, diễn biến bất thường của thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán trên thế giới và những tác động của tình hình bất ổn tại một số khu vực. Cạnh tranh kinh tế giữa các nước ngày càng gay gắt, tự do hóa và bảo hộ đan xen ngày càng phức tạp.

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới vừa qua cũng như cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu và những chính sách ứng phó của Chính phủ các nước sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến phát triển khu vực và kinh tế thế giới.

Sau 30 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều và có thêm kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý điều hành phát triển kinh tế - xã hội.

Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ được triển khai mạnh mẽ, sâu rộng và toàn diện. Nước ta sẽ thực hiện đầy đủ các cam kết đối với Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc và ASEAN với các đối tác khác, Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), TPP và các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Tuy nhiên, nước ta vẫn sẽ phải đối mặt với những khó khăn, thách thức bắt nguồn từ những yếu kém nội tại của nền kinh tế.

(1) Mục tiêu tổng quát

Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Chủ động tích cực, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế. Giữ gìn hòa bình, ổn định, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

(2) Các chỉ tiêu chủ yếu

Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5-7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200-3.500 USD; tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32-34% GDP, trong đó tổng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước 2.106 nghìn tỷ đồng (gồm phát hành trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2017-2020 là 200 nghìn tỷ đồng); bội chi ngân sách nhà nước đến năm 2020 còn khoảng 4% GDP (trong đó: bội chi ngân sách Trung ương khoảng 3,5% GDP, bội chi ngân sách địa phương không quá 0,5% GDP); năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30-35%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1-1,5%/năm; tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt 38-40%.

Về xã hội: Đến năm 2020, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65-70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 9-10 bác sỹ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1-1,5%/năm.

Cac-ĐBQH-hop-phien-toan-the-tai-hoi-truong.JPG
Các ĐBQH họp phiên toàn thể tại hội trường

Về môi trường: Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95-100% chất thải y tế được xử lý; tỷ lệ che phủ rừng đạt 42%.

(3) Triển khai thực hiện các đột phá lớn: Trong kế hoạch 5 năm 2016-2020, tiếp tục triển khai các nhiệm vụ để thực hiện 3 đột phá lớn đã được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 là:

(i) Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.

Tập trung nghiên cứu, xây dựng các dự án luật, pháp lệnh trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, phấn đấu đến năm 2020, về cơ bản nước ta có hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch, hiệu lực và hiệu quả, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ mới.

Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Đồng thời, sử dụng các nguồn lực của Nhà nước, các công cụ điều tiết, chính sách phân phối, phân phối lại để thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường (hàng hóa, tài chính, chứng khoán, bất động sản, lao động, khoa học, công nghệ).

(ii) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.

Tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao; đào tạo đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực, nhất là những ngành nghề lĩnh vực mới, hiện đại, trong đó đặc biệt chú trọng tới việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ nghiên cứu khoa học; thu hút và đào tạo nhân tài trong lĩnh vực đối ngoại, khu vực quản lý nhà nước và doanh nghiệp, cũng như các ngành, lĩnh vực chủ đạo.

Việc phát triển nguồn nhân lực cần đi đôi với đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp, bậc học. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các chính sách xã hội trong giáo dục.

Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo nghề; gắn đào tạo nghề với nhu cầu lao động của các khu vực sản xuất kinh doanh. Chú trọng đào tạo nghề cho sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn.

Tập trung phát triển bốn trụ cột của kinh tế tri thức: lực lượng lao động có giáo dục và kỹ năng, hệ thống sáng tạo hiệu quả, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin liên lạc hiện đại, hệ thống thể chế và kinh tế được cập nhật.

(iii) Đẩy mạnh thực hiện chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn, ưu tiên các công trình có tính lan tỏa, hình thành hệ thống giao thông vận tải hợp lý giữa các phương thức vận tải; đảm bảo kết nối các phương thức vận tải, các trung tâm kinh tế lớn; nâng cao chất lượng quy hoạch ngành kết cấu hạ tầng; xây dựng các tuyến đường bộ cao tốc, giao thông đô thị, đặc biệt vận tải khối lượng lớn; xây dựng một số cảng biển, cảng hàng không hiện đại.

ĐBQH-Truong-Trong-Nghia-(TP-Ho-Chi-Minh)-phat-bieu-thao-luan-ve-KT-XH-o-hoi-truong.jpg
ĐBQH Trương Trọng Nghĩa (TP. Hồ Chí Minh) phát biểu thảo luận về KT-XH ở hội trường

Rà soát tổng sơ đồ điện quốc gia; đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng điện lực. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng các đô thị lớn; xử lý nước thải, chất thải rắn, khí thải,... Phát triển hệ thống thông tin và truyền thông quốc gia; phát triển hệ thống thủy lợi, đê sông, đê biển; các công trình ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai, bão lũ. Đầu tư phát triển cơ sở vật chất các ngành giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa,... và các phúc lợi xã hội khác.

(4)Những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu

(i) Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

(ii) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh.

(iii) Phát triển các vùng và khu kinh tế. Hoàn thiện quy hoạch vùng, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng. Chú trọng phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, vùng động lực, các khu kinh tế, các khu công nghiệp.

(iv) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và đô thị. Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại.

(v) Tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế.

(vi) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ.

(vii) Phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế.

(viii) Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

(ix) Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

(x) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tuân thủ pháp luật.

(xi) Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

(xii) Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước.
Duy Hiếu (tổng hợp)
 
 
 

Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước

09/04/2016
Tình hình, kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015

Tình hình 5 năm qua có rất nhiều khó khăn, thử thách, kinh tế trong nước và quốc tế diễn biến phức tạp, khủng hoảng kinh tế xảy ra ở nhiều quốc gia, khu vực, hàng loạt doanh nghiệp Việt Nam bị phá sản hoặc dừng hoạt động, tỷ lệ lạm phát rất cao...

Nhìn tổng quát lại trong 5 năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức rất lớn nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị và toàn dân, toàn quân, kinh tế - xã hội nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng trên các lĩnh vực, hoàn thành nhiều chỉ tiêu kế hoạch đặt ra.
Qua thảo luận báo cáo của Chính phủ, nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội ghi nhận và thống nhất với đánh giá của Chính phủ về những kết quả nổi bật như: Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý. Các đột phá chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt được kết quả bước đầu.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ có bước phát triển. Đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đạt kết quả quan trọng.

Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt được cải thiện. Tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết quả tích cực. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm. Phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.

Cải cách hành chính có bước tiến bộ. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả. Khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính trị - xã hội ổn định. Vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng lên. Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn trong giai đoạn tới.

Kết quả đạt được trong 5 năm qua là do sự cố gắng cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp và của cả hệ thống chính trị, đã tích cực thay đổi tư duy, nhận thức để thích ứng với điều kiện, hoàn cảnh biến đổi; tiếp tục kiên trì đổi mới, thực hiện các đột phá chiến lược.

Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm vẫn còn một số hạn chế như: Việc tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đáp ứng yêu cầu. Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc. Kinh tế phục hồi còn chậm. Một số chỉ tiêu đạt thấp (như: GDP bình quân đầu người, vốn đầu tư phát triển). Tích luỹ hạn chế, nhiều cân đối không vững chắc; bội chi ngân sách tăng cao; điều hành các kế hoạch dài hạn của Chính phủ còn nhiều bất cập, nhất là trong việc thực hiện đột phá về nguồn nhân lực; chất lượng sống của người dân thấp, đối mặt với nhiều nguy cơ về vệ sinh an toàn thực phẩm, trật tự an ninh, thu nhập, việc làm…
Năng suất, chất lượng tăng trưởng một số mặt còn thấp. Sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Môi trường kinh doanh còn nhiều hạn chế. Thực hiện ba đột phá chiến lược và tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn vướng mắc, chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với nhiều nước trong khu vực chậm được thu hẹp.

Văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường nhiều mặt còn yếu kém, khắc phục còn chậm. Khoảng cách giàu nghèo còn lớn. Bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh trật tự, an toàn xã hội còn nhiều khó khăn, thách thức. Chưa khai thác thật tốt những cơ hội và điều kiện thuận lợi trong hội nhập quốc tế.

Hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội nhiều mặt còn hạn chế. Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng chưa được đẩy lùi.

Những tồn tại, hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh, những diễn biến mới rất phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, tình hình căng thẳng do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.

Song trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan, chủ yếu là: Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là về vai trò của Nhà nước, kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân, thị trường quyền sử dụng đất, quản lý giá cả, phân bổ nguồn lực, cơ chế cung ứng dịch vụ công, giá dịch vụ trong giáo dục, y tế,... chưa đủ rõ, còn khác nhau, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới về phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế.

Cac-ĐBQH-tinh-Gia-Lai-hop,-thao-luan-o-to.JPG
Các ĐBQH tỉnh Gia Lai họp, thảo luận ở tổ

Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, cơ chế, chính sách và trong chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế - xã hội nhiều mặt còn lúng túng, thiếu nhất quán, chưa thật phù hợp với kinh tế thị trường nên hiệu quả chưa cao, chưa tạo được động lực mạnh mẽ để huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Hệ thống văn bản pháp luật chưa được hoàn thiện. Việc hướng dẫn các chính sách chưa kịp thời và đồng bộ. Tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước nhiều mặt còn hạn chế; nhiều luật, pháp lệnh, nghị định,… chậm đi vào cuộc sống. Việc thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách trong nhiều trường hợp còn chậm, chất lượng thấp, tính khả thi chưa cao.

Chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện và sơ kết, tổng kết thực tiễn. Chưa thay thế được kịp thời những cán bộ không đủ phẩm chất, năng lực, thiếu trách nhiệm, thực thi kém hiệu quả trong triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Phương thức lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội chưa thật phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Khả năng phân tích, dự báo còn bất cập. Phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và việc đào tạo, sử dụng cán bộ còn nhiều mặt hạn chế. Tính thượng tôn pháp luật, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.

Các biện pháp thực hiện thiếu cụ thể và chưa kiên quyết, chưa bắt kịp với yêu cầu của thực tiễn. Quản lý thị trường, giá cả, điều hòa cung cầu một số mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống chưa kịp thời, chưa đồng bộ, kém hiệu quả.

Các chính sách xã hội hóa chậm được đổi mới, thiếu cơ chế rõ ràng, minh bạch, chưa khuyến khích các nhà đầu tư vốn để phát triển các lĩnh vực xã hội.

Dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 20121

Bối cảnh quốc tế trong thời gian tới diễn biến nhanh, phức tạp, tác động mạnh đến kinh tế, xã hội nước ta. Hòa bình và hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài nguyên, lãnh thổ và hoạt động khủng bố tiếp tục gia tăng.

ĐBQH-Le-Thi-Nga-(Thai-Nguyen)-phat-bieu-thao-luan-ve-KT-XH-sang-01-4-2016.jpg
ĐBQH Lê Thị Nga (Thái Nguyên) phát biểu thảo luận về KT-XH sáng 01-4-2016

Kinh tế thế giới phục hồi chậm, khó dự báo, do giá dầu thô giảm xuống quá thấp, diễn biến bất thường của thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán trên thế giới và những tác động của tình hình bất ổn tại một số khu vực. Cạnh tranh kinh tế giữa các nước ngày càng gay gắt, tự do hóa và bảo hộ đan xen ngày càng phức tạp.

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới vừa qua cũng như cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu và những chính sách ứng phó của Chính phủ các nước sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến phát triển khu vực và kinh tế thế giới.

Sau 30 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều và có thêm kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý điều hành phát triển kinh tế - xã hội.

Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ được triển khai mạnh mẽ, sâu rộng và toàn diện. Nước ta sẽ thực hiện đầy đủ các cam kết đối với Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc và ASEAN với các đối tác khác, Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), TPP và các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Tuy nhiên, nước ta vẫn sẽ phải đối mặt với những khó khăn, thách thức bắt nguồn từ những yếu kém nội tại của nền kinh tế.

(1) Mục tiêu tổng quát

Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Chủ động tích cực, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế. Giữ gìn hòa bình, ổn định, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

(2) Các chỉ tiêu chủ yếu

Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5-7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200-3.500 USD; tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32-34% GDP, trong đó tổng vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước 2.106 nghìn tỷ đồng (gồm phát hành trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2017-2020 là 200 nghìn tỷ đồng); bội chi ngân sách nhà nước đến năm 2020 còn khoảng 4% GDP (trong đó: bội chi ngân sách Trung ương khoảng 3,5% GDP, bội chi ngân sách địa phương không quá 0,5% GDP); năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30-35%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1-1,5%/năm; tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt 38-40%.

Về xã hội: Đến năm 2020, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65-70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; có 9-10 bác sỹ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1-1,5%/năm.

Cac-ĐBQH-hop-phien-toan-the-tai-hoi-truong.JPG
Các ĐBQH họp phiên toàn thể tại hội trường

Về môi trường: Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95-100% chất thải y tế được xử lý; tỷ lệ che phủ rừng đạt 42%.

(3) Triển khai thực hiện các đột phá lớn: Trong kế hoạch 5 năm 2016-2020, tiếp tục triển khai các nhiệm vụ để thực hiện 3 đột phá lớn đã được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 là:

(i) Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.

Tập trung nghiên cứu, xây dựng các dự án luật, pháp lệnh trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, phấn đấu đến năm 2020, về cơ bản nước ta có hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch, hiệu lực và hiệu quả, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ mới.

Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Đồng thời, sử dụng các nguồn lực của Nhà nước, các công cụ điều tiết, chính sách phân phối, phân phối lại để thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường (hàng hóa, tài chính, chứng khoán, bất động sản, lao động, khoa học, công nghệ).

(ii) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.

Tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao; đào tạo đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực, nhất là những ngành nghề lĩnh vực mới, hiện đại, trong đó đặc biệt chú trọng tới việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ nghiên cứu khoa học; thu hút và đào tạo nhân tài trong lĩnh vực đối ngoại, khu vực quản lý nhà nước và doanh nghiệp, cũng như các ngành, lĩnh vực chủ đạo.

Việc phát triển nguồn nhân lực cần đi đôi với đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp, bậc học. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập và các chính sách xã hội trong giáo dục.

Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo nghề; gắn đào tạo nghề với nhu cầu lao động của các khu vực sản xuất kinh doanh. Chú trọng đào tạo nghề cho sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn.

Tập trung phát triển bốn trụ cột của kinh tế tri thức: lực lượng lao động có giáo dục và kỹ năng, hệ thống sáng tạo hiệu quả, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin liên lạc hiện đại, hệ thống thể chế và kinh tế được cập nhật.

(iii) Đẩy mạnh thực hiện chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn, ưu tiên các công trình có tính lan tỏa, hình thành hệ thống giao thông vận tải hợp lý giữa các phương thức vận tải; đảm bảo kết nối các phương thức vận tải, các trung tâm kinh tế lớn; nâng cao chất lượng quy hoạch ngành kết cấu hạ tầng; xây dựng các tuyến đường bộ cao tốc, giao thông đô thị, đặc biệt vận tải khối lượng lớn; xây dựng một số cảng biển, cảng hàng không hiện đại.

ĐBQH-Truong-Trong-Nghia-(TP-Ho-Chi-Minh)-phat-bieu-thao-luan-ve-KT-XH-o-hoi-truong.jpg
ĐBQH Trương Trọng Nghĩa (TP. Hồ Chí Minh) phát biểu thảo luận về KT-XH ở hội trường

Rà soát tổng sơ đồ điện quốc gia; đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng điện lực. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng các đô thị lớn; xử lý nước thải, chất thải rắn, khí thải,... Phát triển hệ thống thông tin và truyền thông quốc gia; phát triển hệ thống thủy lợi, đê sông, đê biển; các công trình ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai, bão lũ. Đầu tư phát triển cơ sở vật chất các ngành giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa,... và các phúc lợi xã hội khác.

(4)Những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu

(i) Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

(ii) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh.

(iii) Phát triển các vùng và khu kinh tế. Hoàn thiện quy hoạch vùng, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng. Chú trọng phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, vùng động lực, các khu kinh tế, các khu công nghiệp.

(iv) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và đô thị. Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại.

(v) Tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế.

(vi) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ.

(vii) Phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế.

(viii) Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

(ix) Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

(x) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tuân thủ pháp luật.

(xi) Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

(xii) Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước.
Duy Hiếu (tổng hợp)