> Tin tức - Sự kiện > Tin hoạt động ĐĐBQH > Bộ Công Thương đã có nhiều giải pháp trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giảm lượng hàng

Bộ Công Thương đã có nhiều giải pháp trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giảm lượng hàng tồn kho

17/11/2014
Thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn trong các kỳ họp Quốc hội và các phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết số 75/2014/QH13 ngày 24/6/2014 về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 7; theo báo cáo tổng hợp của Đoàn Thư ký kỳ họp, Bộ Công Thương đã nghiêm túc thực hiện việc báo cáo về tình hình triển khai, thực hiện các vấn đề đã hứa trước Quốc hội, đồng thời triển khai theo chức năng, nhiệm vụ đối với những vấn đề đã được nêu trong các nghị quyết, kết luận và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, tạo được sự chuyển biến khá rõ nét.

Các biện pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài; khuyến khích tiêu dùng hàng hóa trong nước sản xuất, quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu hàng hóa, hạn chế nhập siêu, chống buôn lậu, hàng lậu; giải quyết hàng tồn kho; góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, khơi thông nguồn hàng, tăng trưởng kinh tế, bảo đảm nâng cao đời sống của nhân dân

Bộ Công Thương đã có nhiều giải pháp trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giảm lượng hàng tồn kho; ưu tiên nguồn lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư chiều sâu, nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, mở rộng thị trường. Cụ thể:

- Đã phê duyệt 3 đợt Chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia năm 2014, bao gồm hoạt động xúc tiến thương mại phát triển thị trường, mặt hàng xuất khẩu, thông tin thị trường trong nước và quốc tế, xúc tiến thương mại các vùng kinh tế, đào tạo nâng cao năng lực cho doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức xúc tiến thương mại, đưa hàng Việt về nông thôn, miền núi, biên giới và hải đảo.

- Tích cực, chủ động phối hợp với các Bộ, ngành để triển khai nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, khai thông thị trường xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu. Đề ra một số giải pháp, đề xuất giải quyết những khó khăn vướng mắc phát sinh liên quan đến xuất nhập khẩu qua cửa khẩu phụ, lối mở biên giới như: xuất khẩu đường tồn kho trong nước, xuất khẩu gạo, nhập khẩu gỗ từ Campuchia; làm việc với Sở Công Thương các tỉnh có vùng trồng nông sản, trái cây tươi xuất khẩu để trao đổi và bàn giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dưa hấu và vải sang thị trường Trung Quốc; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được nhập khẩu các mặt hàng là nguyên nhiên vật liệu, vật tư phục vụ sản xuất trong nước qua các cửa khẩu phụ, lối mở biên giới như than cốc, phân bón, nguyên liệu thuốc lá và hóa chất công nghiệp...

Với việc triển khai đồng bộ các biện pháp nêu trên, hoạt động xuất nhập khẩu năm 2013 và trong 4 tháng đầu năm 2014 đã đạt những kết quả tích cực. Xuất khẩu tăng trưởng ở mức khá (tăng 15,4% năm 2013, tăng 18,9% trong 4 tháng đầu năm 2014), cán cân thương mại đạt thặng dư (liên tiếp hai năm 2012, 2013 có xuất siêu, 4 tháng đầu năm 2014 xuất siêu khoảng 2 tỷ USD).

- Tiếp tục hướng dẫn, đôn đốc và phối hợp với các địa phương nhân rộng mô hình “Chắp nối cung cầu hàng hóa giữa các cơ sở sản xuất hàng công nghiệp nông thôn với các kênh phân phối hàng hóa nội địa truyền thống và hiện đại”; đồng thời theo dõi sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp ở địa bàn nông thôn nói riêng nhằm phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các chủ thể sản xuất kinh doanh, nhất là giải quyết hàng tồn kho, mở rộng thị trường tiêu thụ.

- Phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong việc triển khai các  Chương trình bình ổn thị trường, giá cả. Việc triển khai chương trình vừa thực hiện được mục tiêu kiềm chế lạm phát, vừa tạo điều kiện để gắn kết người sản xuất với các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ, qua đó giúp họ yên tâm sản xuất khi đầu ra tiêu thụ ổn định.

Kết quả là tình hình hàng tồn kho, hàng ứ đọng trong doanh nghiệp nhìn chung đã có chuyển biến tích cực, chỉ số tồn kho trong lĩnh vực chế biến, chế tạo có xu hướng giảm dần qua các tháng. Tuy nhiên, vẫn còn những ngành có chỉ số tồn kho tăng hơn so với mức tăng chung.

Về lộ trình thực hiện thị trường cạnh tranh, chống độc quyền, nhất là đối với các sản phẩm điện, xăng, dầu, than, vật tư cho sản xuất nông nghiệp, bảo đảm phát triển bền vững

Đối với ngành Điện: Ngày 01/7/2012, thị trường phát điện cạnh tranh được vận hành chính thức và đã đạt được các kết quả bước đầu tích cực: Tạo ra các tín hiệu tốt để thu hút đầu tư mới trong lĩnh vực phát triển nguồn điện; tăng tính minh bạch, công bằng trong việc huy động các nguồn điện thông qua bản chào giá của nhà máy; giá điện được hình thành theo quy luật cung cầu khách quan; tăng tính cạnh tranh giữa các đơn vị phát điện trong thị trường, thúc đẩy các nhà máy chủ động nâng cao hiệu quả cạnh tranh và giảm chi phí phát điện của các nhà máy.

Về kiểm soát giá thành sản xuất điện, làm cơ sở điều chỉnh giá bán điện kịp thời theo cơ chế thị trường; thực hiện lộ trình điện cạnh tranh, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan tổ chức kiểm tra, tính toán giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2013 để làm cơ sở điều chỉnh giá bán điện trong thời gian tới.

Đối với mặt hàng xăng dầu: Ngày 03/9/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 83/2014/NĐ-CP thay thế Nghị định số 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu. Ngày 24/10/2014, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 38/2014/TT-BCT quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu. Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 1/11/2014.
 
Toan-canh-phien-hop-Quoc-hoi-chat-van-Bo-truong-Bo-Cong-Thuong.JPG
Toàn cảnh phiên họp Quốc hội chất vấn Bộ trưởng Bộ Công Thương.
Phát triển ổn định thị trường trong nước và ngoài nước, định hướng, vận động tiêu thụ sản phẩm nội địa. Đấu tranh chống gian lận thương mại, nhất là trong tiêu thụ hàng hóa nông sản. Xây dựng thị trường hàng hóa phát triển hài hòa, bền vững

Về công tác phát triển thị trường trong nước: Tiếp tục tổ chức triển khai các hoạt động kết nối cung - cầu để kết nối giữa vùng sản xuất nông sản, thủy sản với hệ thống phân phối. Thực hiện Đề án “Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển theo quy mô lớn nhằm đem lại lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng” và thông qua các chương trình lớn của Chính phủ, của Bộ để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển theo quy mô lớn nhằm đem lại lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng.

Nhân rộng mô hình tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư nông nghiệp theo Quyết định số 23/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010 - 2015 và định hướng đến năm 2020”.

- Bộ Công Thương, Hội Nông dân Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Ủy ban nhân dân 12 tỉnh thống nhất chỉ đạo Sở Công Thương phối hợp với Hội Nông dân, Liên minh Hợp tác xã tỉnh cùng các cơ quan liên quan tiếp tục hoàn thiện và nhân rộng mô hình;

- Hiện nay, đã có 10/12 tỉnh thực hiện tốt việc nhân rộng mô hình thí điểm. Ngoài 2 mô hình nêu trên, để phù hợp với từng địa phương, một số mô hình khác đã được áp dụng. Việc nhân rộng mô hình đã mang lại hiệu quả rõ rệt.

- Một số tồn tại, hạn chế chủ yếu: Nhận thức của một bộ phận dân cư trên địa bàn một số Tỉnh trong việc ký kết hợp đồng còn hạn chế. Tình hình liên kết trong kinh doanh giữa các hợp tác xã chưa chặt chẽ, các hợp tác xã, tổ hợp tác chưa thực hiện tốt vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và hộ nông dân và xã viên. Các doanh nghiệp chưa gắn với vùng nguyên liệu, chưa có hợp đồng ổn định, lâu dài, chỉ thực hiện ký kết theo mùa vụ, thời điểm nhất hịnh hoặc ký hợp đồng nguyên tắc. Năng lực về quản lý cũng như tài chính của các hợp tác xã còn yếu.

- Để khắc phục những tồn tại hạn chế nêu trên, thời gian tới sẽ tổ chức thực hiện 6 giải pháp cụ thể: Các địa phương cần tiếp tục rà soát các quy hoạch; gắn quy hoạch thương mại với quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp; Hỗ trợ về cung cấp thông tin thị trường, giá cả hàng hóa, đăng thông tin về doanh nghiệp, lập trang web để giao dịch và quảng bá về tiềm năng thế mạnh của doanh nghiệp và sản phẩm nông sản; Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, đưa các mặt hàng nông sản có tiềm năng vào kế hoạch xúc tiến thương mại của địa phương hàng năm; Tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nhằm nâng cao trình độ quản lý, kinh doanh cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh; Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động giáo dục, tuyên truyền, vận động nông dân, xã viên, hợp tác xã, doanh nghiệp, hộ kinh doanh thực hiện các hình thức tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp thông qua hợp đồng, gắn sản xuất với chế biến, nhất là ở vùng sản xuất tập trung; Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường nhằm ngăn chặn kịp thời các hoạt động kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng; bảo đảm lợi ích cho nông dân và doanh nghiệp kinh doanh chính đáng.

Về công tác phát triển thị trường ngoài nước: Bộ đã tích cực phối hợp với các đơn vị hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia hội chợ, triển lãm tại các thị trường mới.

- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hiệp hội Lương thực Việt Nam thực hiện tốt các hợp đồng gạo xuất khẩu đã ký với nước ngoài và tích cực tìm kiếm thêm thị trường. Kết quả là hết tháng 9 năm 2014 ước xuất khẩu được khoảng 5,1 triệu tấn gạo (gần tương đương với cùng kỳ năm 2013), trong đó chủ yếu sang các thị trường Phi-líp-pin, Indonexia, Trung Quốc… Tiếp tục duy trì các hoạt động xúc tiến thương mại tại các thị trường truyền thống.

- Đẩy mạnh các hoạt động đàm phán song phương, đa phương trong khuôn khổ các Hiệp định khu vực mậu dịch tự do, Hiệp định thương mại… nhằm mở cửa thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam …

- Tuyên truyền, phổ biến để các doanh nghiệp tận dụng tối đa các điều kiện thuận lợi về tiếp cận thị trường và cắt giảm thuế quan ngày càng sâu hơn của các đối tác để đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang các thị trường đã ký FTA.

- Tiếp tục chỉ đạo các Thương vụ Việt Nam tại các nước tăng cường công tác nắm bắt thông tin, chú trọng hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang các thị trường trong khu vực (Trung Quốc, Nhật Bản, In-đô-nê-xi-a, Ốt–xtrây-li-a).

- Xây dựng và ban hành một số Chương trình hành động đẩy mạnh quan hệ hợp tác về thương mại, công nghiệp với các nước/ khu vực.

Về công tác nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng Quản lý thị trường: Tổ chức kiểm tra, kiểm soát có trọng tâm, trọng điểm, xác định các mặt hàng, tuyến địa bàn trọng điểm về buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại để xây dựng kế hoạch kiểm tra, kiểm soát theo từng tuyến, từng khu vực trọng điểm và giải pháp tập trung đấu tranh, ngăn chặn: Đã ban hành nhiều văn bản, kế hoạch để thực hiện. Kết quả là đã phát hiện và xử lý nhiều vụ việc. Trong 9 tháng đầu năm 2014, lực lượng Quản lý thị trường cả nước đã kiểm tra 130.000 vụ, xử lý 66.000 vụ vi phạm với tổng số thu nộp ngân sách 280 tỷ đồng.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách pháp luật cho mọi đối tượng, biến nhận thức về chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại thành ý thức tự giác thường trực và hành động cụ thể của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp, mỗi người dân: Bộ Công Thương đã ban hành các văn bản liên quan để thực hiện. Hiện nay, Chi cục Quản lý thị trường các tỉnh, thành phố đã xây dựng Kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện các kế hoạch của Bộ, của Cục Quản lý thị trường./.
                                                                                      Duy Hiếu (lược ghi)

Bộ Công Thương đã có nhiều giải pháp trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giảm lượng hàng tồn kho

17/11/2014
Thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn trong các kỳ họp Quốc hội và các phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết số 75/2014/QH13 ngày 24/6/2014 về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 7; theo báo cáo tổng hợp của Đoàn Thư ký kỳ họp, Bộ Công Thương đã nghiêm túc thực hiện việc báo cáo về tình hình triển khai, thực hiện các vấn đề đã hứa trước Quốc hội, đồng thời triển khai theo chức năng, nhiệm vụ đối với những vấn đề đã được nêu trong các nghị quyết, kết luận và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, tạo được sự chuyển biến khá rõ nét.

Các biện pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài; khuyến khích tiêu dùng hàng hóa trong nước sản xuất, quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu hàng hóa, hạn chế nhập siêu, chống buôn lậu, hàng lậu; giải quyết hàng tồn kho; góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, khơi thông nguồn hàng, tăng trưởng kinh tế, bảo đảm nâng cao đời sống của nhân dân

Bộ Công Thương đã có nhiều giải pháp trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giảm lượng hàng tồn kho; ưu tiên nguồn lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư chiều sâu, nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, mở rộng thị trường. Cụ thể:

- Đã phê duyệt 3 đợt Chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia năm 2014, bao gồm hoạt động xúc tiến thương mại phát triển thị trường, mặt hàng xuất khẩu, thông tin thị trường trong nước và quốc tế, xúc tiến thương mại các vùng kinh tế, đào tạo nâng cao năng lực cho doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức xúc tiến thương mại, đưa hàng Việt về nông thôn, miền núi, biên giới và hải đảo.

- Tích cực, chủ động phối hợp với các Bộ, ngành để triển khai nhiều biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, khai thông thị trường xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu. Đề ra một số giải pháp, đề xuất giải quyết những khó khăn vướng mắc phát sinh liên quan đến xuất nhập khẩu qua cửa khẩu phụ, lối mở biên giới như: xuất khẩu đường tồn kho trong nước, xuất khẩu gạo, nhập khẩu gỗ từ Campuchia; làm việc với Sở Công Thương các tỉnh có vùng trồng nông sản, trái cây tươi xuất khẩu để trao đổi và bàn giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dưa hấu và vải sang thị trường Trung Quốc; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được nhập khẩu các mặt hàng là nguyên nhiên vật liệu, vật tư phục vụ sản xuất trong nước qua các cửa khẩu phụ, lối mở biên giới như than cốc, phân bón, nguyên liệu thuốc lá và hóa chất công nghiệp...

Với việc triển khai đồng bộ các biện pháp nêu trên, hoạt động xuất nhập khẩu năm 2013 và trong 4 tháng đầu năm 2014 đã đạt những kết quả tích cực. Xuất khẩu tăng trưởng ở mức khá (tăng 15,4% năm 2013, tăng 18,9% trong 4 tháng đầu năm 2014), cán cân thương mại đạt thặng dư (liên tiếp hai năm 2012, 2013 có xuất siêu, 4 tháng đầu năm 2014 xuất siêu khoảng 2 tỷ USD).

- Tiếp tục hướng dẫn, đôn đốc và phối hợp với các địa phương nhân rộng mô hình “Chắp nối cung cầu hàng hóa giữa các cơ sở sản xuất hàng công nghiệp nông thôn với các kênh phân phối hàng hóa nội địa truyền thống và hiện đại”; đồng thời theo dõi sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp ở địa bàn nông thôn nói riêng nhằm phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các chủ thể sản xuất kinh doanh, nhất là giải quyết hàng tồn kho, mở rộng thị trường tiêu thụ.

- Phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong việc triển khai các  Chương trình bình ổn thị trường, giá cả. Việc triển khai chương trình vừa thực hiện được mục tiêu kiềm chế lạm phát, vừa tạo điều kiện để gắn kết người sản xuất với các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ, qua đó giúp họ yên tâm sản xuất khi đầu ra tiêu thụ ổn định.

Kết quả là tình hình hàng tồn kho, hàng ứ đọng trong doanh nghiệp nhìn chung đã có chuyển biến tích cực, chỉ số tồn kho trong lĩnh vực chế biến, chế tạo có xu hướng giảm dần qua các tháng. Tuy nhiên, vẫn còn những ngành có chỉ số tồn kho tăng hơn so với mức tăng chung.

Về lộ trình thực hiện thị trường cạnh tranh, chống độc quyền, nhất là đối với các sản phẩm điện, xăng, dầu, than, vật tư cho sản xuất nông nghiệp, bảo đảm phát triển bền vững

Đối với ngành Điện: Ngày 01/7/2012, thị trường phát điện cạnh tranh được vận hành chính thức và đã đạt được các kết quả bước đầu tích cực: Tạo ra các tín hiệu tốt để thu hút đầu tư mới trong lĩnh vực phát triển nguồn điện; tăng tính minh bạch, công bằng trong việc huy động các nguồn điện thông qua bản chào giá của nhà máy; giá điện được hình thành theo quy luật cung cầu khách quan; tăng tính cạnh tranh giữa các đơn vị phát điện trong thị trường, thúc đẩy các nhà máy chủ động nâng cao hiệu quả cạnh tranh và giảm chi phí phát điện của các nhà máy.

Về kiểm soát giá thành sản xuất điện, làm cơ sở điều chỉnh giá bán điện kịp thời theo cơ chế thị trường; thực hiện lộ trình điện cạnh tranh, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan tổ chức kiểm tra, tính toán giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2013 để làm cơ sở điều chỉnh giá bán điện trong thời gian tới.

Đối với mặt hàng xăng dầu: Ngày 03/9/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 83/2014/NĐ-CP thay thế Nghị định số 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu. Ngày 24/10/2014, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 38/2014/TT-BCT quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu. Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 1/11/2014.
 
Toan-canh-phien-hop-Quoc-hoi-chat-van-Bo-truong-Bo-Cong-Thuong.JPG
Toàn cảnh phiên họp Quốc hội chất vấn Bộ trưởng Bộ Công Thương.
Phát triển ổn định thị trường trong nước và ngoài nước, định hướng, vận động tiêu thụ sản phẩm nội địa. Đấu tranh chống gian lận thương mại, nhất là trong tiêu thụ hàng hóa nông sản. Xây dựng thị trường hàng hóa phát triển hài hòa, bền vững

Về công tác phát triển thị trường trong nước: Tiếp tục tổ chức triển khai các hoạt động kết nối cung - cầu để kết nối giữa vùng sản xuất nông sản, thủy sản với hệ thống phân phối. Thực hiện Đề án “Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển theo quy mô lớn nhằm đem lại lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng” và thông qua các chương trình lớn của Chính phủ, của Bộ để thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển theo quy mô lớn nhằm đem lại lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng.

Nhân rộng mô hình tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư nông nghiệp theo Quyết định số 23/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010 - 2015 và định hướng đến năm 2020”.

- Bộ Công Thương, Hội Nông dân Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Ủy ban nhân dân 12 tỉnh thống nhất chỉ đạo Sở Công Thương phối hợp với Hội Nông dân, Liên minh Hợp tác xã tỉnh cùng các cơ quan liên quan tiếp tục hoàn thiện và nhân rộng mô hình;

- Hiện nay, đã có 10/12 tỉnh thực hiện tốt việc nhân rộng mô hình thí điểm. Ngoài 2 mô hình nêu trên, để phù hợp với từng địa phương, một số mô hình khác đã được áp dụng. Việc nhân rộng mô hình đã mang lại hiệu quả rõ rệt.

- Một số tồn tại, hạn chế chủ yếu: Nhận thức của một bộ phận dân cư trên địa bàn một số Tỉnh trong việc ký kết hợp đồng còn hạn chế. Tình hình liên kết trong kinh doanh giữa các hợp tác xã chưa chặt chẽ, các hợp tác xã, tổ hợp tác chưa thực hiện tốt vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và hộ nông dân và xã viên. Các doanh nghiệp chưa gắn với vùng nguyên liệu, chưa có hợp đồng ổn định, lâu dài, chỉ thực hiện ký kết theo mùa vụ, thời điểm nhất hịnh hoặc ký hợp đồng nguyên tắc. Năng lực về quản lý cũng như tài chính của các hợp tác xã còn yếu.

- Để khắc phục những tồn tại hạn chế nêu trên, thời gian tới sẽ tổ chức thực hiện 6 giải pháp cụ thể: Các địa phương cần tiếp tục rà soát các quy hoạch; gắn quy hoạch thương mại với quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp; Hỗ trợ về cung cấp thông tin thị trường, giá cả hàng hóa, đăng thông tin về doanh nghiệp, lập trang web để giao dịch và quảng bá về tiềm năng thế mạnh của doanh nghiệp và sản phẩm nông sản; Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, đưa các mặt hàng nông sản có tiềm năng vào kế hoạch xúc tiến thương mại của địa phương hàng năm; Tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nhằm nâng cao trình độ quản lý, kinh doanh cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh; Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động giáo dục, tuyên truyền, vận động nông dân, xã viên, hợp tác xã, doanh nghiệp, hộ kinh doanh thực hiện các hình thức tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp thông qua hợp đồng, gắn sản xuất với chế biến, nhất là ở vùng sản xuất tập trung; Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường nhằm ngăn chặn kịp thời các hoạt động kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng; bảo đảm lợi ích cho nông dân và doanh nghiệp kinh doanh chính đáng.

Về công tác phát triển thị trường ngoài nước: Bộ đã tích cực phối hợp với các đơn vị hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia hội chợ, triển lãm tại các thị trường mới.

- Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hiệp hội Lương thực Việt Nam thực hiện tốt các hợp đồng gạo xuất khẩu đã ký với nước ngoài và tích cực tìm kiếm thêm thị trường. Kết quả là hết tháng 9 năm 2014 ước xuất khẩu được khoảng 5,1 triệu tấn gạo (gần tương đương với cùng kỳ năm 2013), trong đó chủ yếu sang các thị trường Phi-líp-pin, Indonexia, Trung Quốc… Tiếp tục duy trì các hoạt động xúc tiến thương mại tại các thị trường truyền thống.

- Đẩy mạnh các hoạt động đàm phán song phương, đa phương trong khuôn khổ các Hiệp định khu vực mậu dịch tự do, Hiệp định thương mại… nhằm mở cửa thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam …

- Tuyên truyền, phổ biến để các doanh nghiệp tận dụng tối đa các điều kiện thuận lợi về tiếp cận thị trường và cắt giảm thuế quan ngày càng sâu hơn của các đối tác để đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang các thị trường đã ký FTA.

- Tiếp tục chỉ đạo các Thương vụ Việt Nam tại các nước tăng cường công tác nắm bắt thông tin, chú trọng hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang các thị trường trong khu vực (Trung Quốc, Nhật Bản, In-đô-nê-xi-a, Ốt–xtrây-li-a).

- Xây dựng và ban hành một số Chương trình hành động đẩy mạnh quan hệ hợp tác về thương mại, công nghiệp với các nước/ khu vực.

Về công tác nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng Quản lý thị trường: Tổ chức kiểm tra, kiểm soát có trọng tâm, trọng điểm, xác định các mặt hàng, tuyến địa bàn trọng điểm về buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại để xây dựng kế hoạch kiểm tra, kiểm soát theo từng tuyến, từng khu vực trọng điểm và giải pháp tập trung đấu tranh, ngăn chặn: Đã ban hành nhiều văn bản, kế hoạch để thực hiện. Kết quả là đã phát hiện và xử lý nhiều vụ việc. Trong 9 tháng đầu năm 2014, lực lượng Quản lý thị trường cả nước đã kiểm tra 130.000 vụ, xử lý 66.000 vụ vi phạm với tổng số thu nộp ngân sách 280 tỷ đồng.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách pháp luật cho mọi đối tượng, biến nhận thức về chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại thành ý thức tự giác thường trực và hành động cụ thể của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp, mỗi người dân: Bộ Công Thương đã ban hành các văn bản liên quan để thực hiện. Hiện nay, Chi cục Quản lý thị trường các tỉnh, thành phố đã xây dựng Kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện các kế hoạch của Bộ, của Cục Quản lý thị trường./.
                                                                                      Duy Hiếu (lược ghi)