> Tin tức - Sự kiện > Tin hoạt động ĐĐBQH > Cải cách thể chế kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi mô hình t

Cải cách thể chế kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư

03/11/2014
Trong phiên khai mạc kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XIII, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã trình bày Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 và nhiệm vụ 2015. Báo cáo khẳng định, trong bối cảnh có nhiều khó khăn thách thức của năm 2014, mặc dù vẫn còn mặt hạn chế, yếu kém nhưng hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại đã đạt được những kết quả tích cực. Điểm sáng nổi lên của nền kinh tế là công nghiệp tăng trưởng cao, nhất là tăng trưởng ở khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp khai khoáng; nông nghiệp phát triển ổn định, năng suất tăng lên, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực; dịch vụ tiếp tục đà tăng trưởng; từ chuyển biến tích cực này, dự báo chỉ tiêu tổng hợp đó là tăng trưởng GDP sẽ đạt và có khả năng tăng cao hơn 5,8%. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chủ quyền quốc gia được bảo đảm. Chính trị - xã hội ổn định; vị thế quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng lên. Các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mà Quốc hội đã đề ra cơ bản đạt được. Trong 14 chỉ tiêu kế hoạch năm 2014, dự báo có 13 chỉ tiêu đạt, vượt và 1 chỉ tiêu không đạt. Đây là sự nỗ lực, cố gắng rất lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Ngày 30/10 và buổi sáng 31/10/2014, Quốc hội thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015. Trong thời gian qua, bối cảnh kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu phục hồi nhưng với tốc độ chậm, còn mong manh và bất định. Khủng hoảng khu vực đồng tiền chung châu Âu chưa kết thúc, áp lực tài khóa tại Mỹ còn cao và rủi ro có thể gia tăng tại các nền kinh tế mới nổi. Bên cạnh đó, xung đột vũ trang, căng thẳng chính trị ở một số khu vực và dịch bệnh đang khiến những biến động trở nên khó lường. Trong khi đó, sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương - 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế ở Biển Đông của Việt Nam đã đặt ra những thách thức mới cho nước ta trong quan hệ kinh tế - thương mại với nước láng giềng và các nước khác.

Các ý kiến của đại biểu Quốc hội cơ bản thống nhất với báo cáo của Chính phủ. Trong tình hình nhiều khó khăn, thách thức, song kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội có nhiều mặt đáng khích lệ. Kinh tế vĩ mô năm 2014 ổn định, có một số mặt vững chắc hơn. Tăng trưởng kinh tế ở mức khá, dự kiến cả năm tăng 5,8% GDP. Lạm phát kiềm chế ở mức thấp, 9 tháng đầu năm CPI tăng ở mức 2,25%, dự kiến cả năm chỉ tăng từ 4,5% đến 5%. Xuất khẩu tăng khá, và đây là năm thứ 3 liên tiếp đạt được xuất siêu với số lượng lớn; cán cân thương mại thặng dư, dự trữ ngoại tệ tiếp tục tăng, tỷ giá VND/USD tương đối ổn định; chỉ số sản xuất công nghiệp tăng. Thu ngân sách đạt khá, tạo điều kiện vật chất để xử lý những vấn đề đột xuất phát sinh. Các đại biểu đánh giá cao sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, tháo gỡ khó khăn kịp thời đối với sản xuất, kinh doanh, chăm lo an sinh xã hội, đời sống nhân dân và nhất là các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Các đại biểu Quốc hội đánh giá cao sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ và vai trò của một số Bộ trưởng - Tư lệnh ngành cũng thể hiện rõ nét với tinh thần chủ động, tích cực trong việc đề xuất, thực thi các giải pháp hỗ trợ thị trường, tăng cường đi cơ sở để nắm sát tình hình, trực tiếp tháo gỡ những khó khăn, không chỉ tập trung giải quyết những vướng mắc trong ngành mình mà có sự phối hợp chặt chẽ hơn. Nhờ đó các giải pháp được triển khai một cách đồng bộ, mang lại hiệu ứng lan tỏa, tác động tích cực đến các mặt đời sống xã hội, trong đó phải kể đến tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ trưởng, trưởng ngành tiêu biểu như Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và một số Bộ trưởng khác.
 
Cac-thanh-vien-Chinh-phu-tham-du-Phien-hop-Quoc-hoi-ngay-01-11-2014.JPG
Các thành viên Chính phủ tham dự Phiên họp Quốc hội ngày 01-11-2014

Bên cạnh đó, các đại biểu Quốc hội cho rằng, nền kinh tế của chúng ta đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ, đó là: Tín hiệu phục hồi kinh tế từ phía cung và cầu đều chưa rõ ràng, quá trình phục hồi còn mong manh, chưa thoát vùng đáy tăng trưởng. Doanh nghiệp FDI chiếm 67% tổng xuất khẩu, 70% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước nhưng đóng góp thực sự của khu vực này cho nền kinh tế không cao. Kim ngạch xuất khẩu khoảng 148 tỷ đô la thì chỉ 1/3 là của các doanh nghiệp sản xuất trong nước, 2/3 của khối doanh nghiệp FDI. Điều đáng chú ý là các doanh nghiệp FDI xuất siêu đến 12 tỷ đô la, nếu loại trừ dầu thô thì cũng xuất siêu 8 - 9 tỷ đô la. Như vậy, doanh nghiệp trong nước xuất khẩu thấp và vẫn ở tình trạng nhập siêu. Lạm phát tuy được kiềm chế, nhưng nguy cơ lạm phát vẫn còn hiện hữu. Qua theo dõi, cho thấy trong nhiều năm trở lại đây, tổng phương tiện thanh toán tăng liên tục từ 16% - 18%, gấp khoảng 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần phải có sự lưu ý xử lý vấn đề này. Mặt khác, cân đối ngân sách nhà nước hết sức khó khăn. Nợ công xu hướng tăng nhanh. Nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng cũng ở mức cao. Phương án xử lý nợ xấu có thể xử lý được, nhưng khó khăn trong môi trường pháp lý và những điều kiện thực hiện đang cản trở việc chậm xử lý đối với nợ xấu. Chính vì khó khăn như vậy dẫn đến nhiều mục tiêu như tăng lương, bố trí chi trả nợ, bố trí chi đầu tư phát triển hết sức khó khăn. Các giải pháp hỗ trợ thị trường bất động sản vẫn chưa phát huy được hiệu quả. Mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế yếu. Cơ hội kinh doanh thấp do tổng cầu giảm. Khu vực kinh tế tư nhân vẫn là khu vực dễ bị tổn thương nhất, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thấp, tiêu thụ sản phẩm vẫn rất khó khăn, tỷ lệ doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể cao, biểu hiện ở chỗ 9 tháng đầu năm có hơn 53.000 doanh nghiệp thành lập mới thì vẫn có đến hơn 48.000 doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, 2/3 số doanh nghiệp trong 9 tháng đầu năm báo lỗ, không có lợi nhuận, tình trạng đổ vỡ của doanh nghiệp, khó khăn của doanh nghiệp rất lớn. Thu nhập người dân vẫn duy trì ở mức thấp, vẫn còn một bộ phận lao động có thu nhập rất thấp.

Quốc lộ 14 hiện nay đang trở thành đại công trường, đào bới nham nhở, ách tắc giao thông, gây bức xúc trong dư luận. Nhiều nhà thầu thi công ẩu, nhanh xuống cấp, thường xuyên án binh bất động, hoạt động cầm chừng hoặc chỉ hoạt động rầm rộ một thời gian ngắn để đối phó với giám sát, thanh tra của các cơ quan Chính phủ. Đại biểu Quốc hội nhấn mạnh và mong muốn Chính phủ chú ý có giải pháp mạnh mẽ để đẩy nhanh việc hoàn thành Quốc lộ 14 đi qua các tỉnh khu vực Tây Nguyên. Công trình Quốc lộ 14 hoàn thành sớm được ngày nào thì hàng chục nghìn hộ, hàng trăm nghìn dân, cử tri dọc hai bên quốc lộ đỡ cơ cực được ngày ấy, chưa nói đến những tác động tích cực về kinh tế - xã hội mang lại cho đời sống nhân dân Tây Nguyên. Cử tri đang lo lắng về chất lượng công trình, vì để đảm bảo tiến độ hoàn thành thì không tránh khỏi việc thi công ẩu. Rất mong Chính phủ bên cạnh việc có giải pháp đôn đốc hoàn thành tiến độ, cần có giải pháp giám sát thi công thật chặt chẽ. Bên cạnh đó, việc bố trí trạm thu phí dày đặc như kế hoạch gây ra không ít phiền toái, không đúng với quy định của Bộ Tài chính là mỗi trạm thu phí cách nhau tối thiểu 70km; đồng thời, với cơ chế thu phí của hình thức đầu tư BOT chồng chất thêm gánh nặng về phí cho người dân lưu thông trên Quốc lộ 14. Chính phủ nên rà soát, nghiên cứu để chuyển đổi hình thức đầu tư nâng cấp Quốc lộ 14 bổ sung thêm một phần bằng nguồn vốn trái phiếu.

Vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế là một chủ trương lớn nhưng thực hiện chậm và hiệu quả còn thấp. Tái cơ cấu lĩnh vực nông nghiệp mặc dù đã có đề án tổng thể chung nhưng việc triển khai cũng chưa đạt yêu cầu và mục tiêu còn phân tán. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước triển khai chậm, trong đó cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cũng chưa đạt được mục tiêu đề ra. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế tuy có cải thiện nhưng vẫn chậm so với các nước láng giềng. Thị trường bất động sản có phục hồi nhưng cũng chậm. Công tác phòng, chống gian lận thương mại còn hạn chế. Tình trạng doanh nghiệp FDI chuyển giá chưa được khắc phục. Sản xuất nông nghiệp được đánh giá là trụ đỡ của nền kinh tế trong lúc khó khăn nhưng tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần. Tình trạng cháy rừng, phá rừng còn gây nhiều hậu quả. Kinh tế biển đã được nhà nước ban hành nhiều chính sách hỗ trợ nhưng việc triển khai cũng còn gặp khó khăn, vướng mắc.

Một số chính sách gây ra hụt thu và tăng chi lớn đã có ảnh hưởng lớn đến cân đối ngân sách nhà nước. Tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm, tình hình nợ xấu có xu hướng tăng và việc xử lý còn chậm. Quy mô nợ công lớn đang ở mức sát trần cho phép, nợ đọng xây dựng cơ bản, nợ ngân hàng chính sách, nợ bảo hiểm xã hội cũng rất đáng lo ngại, áp lực trả nợ rất lớn. Cần phải đánh giá một cách thẳng thắn, trong đó cụ thể hóa cơ cấu nợ, chủ thể nợ, mức nợ hàng năm và tỷ trọng nợ công như Báo cáo của Bộ trưởng Bộ Tài chính đã bổ sung làm rõ những vấn đề này. Đặc biệt là phải quan tâm đến những phát sinh do thực hiện nguồn vốn ODA xảy ra.

Chương trình nông thôn mới cũng đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng cũng có những hiện tượng chạy theo thành tích và nhiều chỉ tiêu chưa phù hợp với đặc thù của từng địa phương, vùng, miền. Chỉ tiêu tạo việc làm thiếu vững chắc, tỷ lệ thất nghiệp chung theo báo cáo là giảm nhưng số lao động thiếu việc làm, không có việc làm vẫn rất nhiều, năng suất lao động xã hội thấp. Cần có đánh giá cụ thể, rõ hơn để có những giải pháp khắc phục. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là hộ nghèo ở nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn.

Một số đề xuất về cải cách giáo dục chưa hợp lý, sinh viên ra trường thiếu việc làm cũng gây bức xúc trong nhân dân. An toàn xã hội, an toàn giao thông, an toàn lao động, an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn về môi trường, tệ nạn xã hội, đạo đức xã hội xuống cấp vẫn là nỗi lo lắng thường xuyên của người dân. Quản lý tài nguyên, môi trường cũng còn mặt này, mặt khác hạn chế, đặc biệt là ô nhiễm môi trường ở làng nghề, các lưu vực sông vẫn tăng lên. Khai thác, sử dụng tài nguyên chưa được kiểm soát chặt chẽ. Cải cách hành chính còn hạn chế. Tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp vẫn còn diễn biến phức tạp. Tình trạng tham nhũng gây thất thoát lớn. Công tác kê khai, quản lý tài sản chưa có hiệu quả thiết thực. Tình hình vi phạm pháp luật trên một số lĩnh vực tiếp tục diễn biến phức tạp. Một số tội phạm gia tăng đáng kể như tội phạm mạng, tình trạng buôn bán người v.v...

Một số vấn đề cần phải làm rõ thêm trong Báo cáo của Chính phủ đó là, đánh giá hiệu quả liên kết vùng, có giải pháp tăng cường liên kết vùng và chính sách phát triển vùng động lực cũng như vùng khó khăn. Làm rõ vấn đề kiểm soát chặt chẽ hiệu quả sử dụng, tránh thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong sử dụng nguồn vốn ODA. Xuất siêu lớn chủ yếu do hàng gia công lắp ráp của các doanh nghiệp FDI với trình độ công nghệ tương đối trung bình và thấp. Chính phủ cần phải đánh giá đến tác động xã hội và môi trường đối với việc thực hiện nguồn vốn này.

Phân tích, đánh giá vấn đề nợ công trong dài hạn để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Báo cáo của Chính phủ rất rõ, đề nghị rút ra những quan điểm nguyên tắc chỉ đạo của Quốc hội về vấn đề nợ công và đưa vào nghị quyết của Quốc hội. Trong đó chủ ý khẳng định từ năm 2015 trở đi sẽ không phát hành trái phiếu Chính phủ có thời hạn dưới 5 năm.

Các đại biểu đề nghị tìm các giải pháp tích cực để có nguồn chi lương. Trước hết là cho các đối tượng khó khăn, thu nhập thấp và chính sách người có công. Tình hình nợ đọng văn bản hướng dẫn luật, thi hành luật, pháp lệnh và ban hành các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành luật cùng với việc tổ chức thực hiện chậm, làm ảnh hưởng đến hiệu lực của các văn bản pháp luật. Việc triển khai các chủ trương, chính sách còn chậm, nhất là những đề án đã được Chính phủ phê duyệt, chưa tạo ra động lực. Kỷ cương, kỷ luật, điều hành, chấp hành của xã hội cũng như của các cấp trong cơ quan điều hành cũng chưa được nghiêm túc.

Vấn đề là cần phải làm rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan của những hạn chế, yếu kém nêu trên. Nội dung gì thuộc về chính sách, về những hạn chế, yếu kém thuộc chính sách pháp luật cần phải hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Những nội dung gì do công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý, phối hợp tổ chức thực hiện gắn với trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương cần được chấn chỉnh cho đúng, đồng bộ và kịp thời, cần phải đổi mới cách làm để đạt hiệu quả cao hơn, chất lượng tốt hơn. Cần thiết phải xác định trách nhiệm của cá nhân phụ trách trong việc triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở từng ngành, lĩnh vực, địa phương để kỷ cương, kỷ luật được coi trọng và thực hiện nghiêm minh.

Về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, đa số đại biểu Quốc hội tán thành mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu chủ yếu của kinh tế - xã hội và môi trường, các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu mà Chính phủ đã đề ra. Đây là năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm, năm 2015 là năm các nước Đông Nam Á theo lộ trình dự kiến trở thành Cộng đồng kinh tế ASEAN. Bên cạnh những khó khăn, thách thức, chúng ta có nhiều thuận lợi, thời cơ để thúc đẩy tăng trưởng, hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra cho cả nhiệm kỳ. Đề nghị Chính phủ rà soát lại hệ thống chỉ tiêu chủ yếu cho đúng thực chất, tránh hình thức và cần cụ thể hơn các nhóm nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, trong đó nhấn mạnh các nội dung sau đây:

Cần dự báo tình hình thế giới và khu vực cũng như trong nước, nhận diện rõ đặc điểm, yêu cầu cho năm 2015 để xác định mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp, mục tiêu tổng quát thống nhất là: Ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tăng trưởng kinh tế cao và vững chắc hơn 2014, phát triển văn hóa, xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia và phát huy những kết quả của hoạt động đối ngoại và hội nhập. Các chỉ tiêu chủ yếu đề ra cần phấn đấu với tinh thần cao nhất, để chúng ta có thể kết thúc nhiệm kỳ, nhưng phải có tính khả thi và loại bỏ bớt những chỉ tiêu không chủ yếu.
 
Cac-đai-bieu-Quoc-hoi-hop-tai-Phong-hop-Dien-Hong,-Nha-Quoc-hoi-Hoi-truong-Ba-Đinh-moi.JPG
Các đại biểu Quốc hội họp tại Phòng họp Diên Hồng, Nhà Quốc hội -Hội trường Ba Đình mới

Nhiệm vụ, giải pháp cần xác định trọng tâm, trọng điểm những nhiệm vụ cần thực hiện trong năm 2015. Trên cơ sở đánh giá lại 4 năm qua, những tồn tại, yếu kém đã rút ra để có những giải pháp khắc phục thiết thực. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và tạo ra một sự thay đổi đột phá mạnh mẽ về thể chế quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, tài chính công, về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, ổn định, thu hút các nguồn lực đầu tư, phục hồi sản xuất kinh doanh, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế. Đảm bảo tính ổn định chất lượng của tăng trưởng, đẩy mạnh đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế và các đề án tái cơ cấu ngành, lĩnh vực, gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp công nghệ cao, phải có chính sách và cơ chế để phát triển doanh nghiệp tư nhân, huy động thêm nguồn vốn ngoài khu vực nhà nước tạo động lực phát triển. Tạo ra cơ chế linh hoạt để triển khai đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp có hiệu quả hơn, có chính sách hỗ trợ, khuyến khích mạnh mẽ, công khai, minh bạch để thu hút đầu tư của tư nhân, đầu tư của nước ngoài có khả năng ứng dụng công nghệ cao vào lĩnh vực này. Quan tâm đầu tư đúng mức, tập trung vào các vùng, miền trọng điểm, chú trọng công tác quy hoạch, xây dựng liên kết vùng phát huy lợi thế so sánh trong phát triển nông nghiệp.

Xử lý nợ xấu, sở hữu chéo, vốn ảo, tài sản ảo của các ngân hàng thương mại, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng dễ dàng hơn, tiết kiệm và giảm chi thường xuyên trong chi tiêu ngân sách. Triển khai tốt các chính sách an sinh xã hội, bố trí đủ kinh phí để các cấp, các ngành thực hiện các quy định của nhà nước về an sinh xã hội, nhất là cho các đối tượng chính sách về nhà ở, về y tế, giáo dục, tập trung nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao kỷ cương, kỷ luật, trách nhiệm cá nhân là động lực để nâng cao năng suất lao động một cách rõ rệt. Tiếp tục thực hiện mục tiêu lao động qua đào tạo, đào tạo nghề và nâng cao chất lượng, đáp ứng quá trình tái cơ cấu kinh tế, trong đó quan tâm mạnh mẽ hơn nữa giáo dục và đào tạo nghề cho người dân tộc thiểu số. Tăng cường công tác đánh giá chất lượng, tổ chức bộ máy và công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức. Cải cách tư pháp trên tất cả các mặt công tác, tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm, hiệu quả các nghị quyết của Quốc hội về công tác phòng,chống vi phạm pháp luật và tội phạm. Chủ động đưa ra các giải pháp, biện pháp để thực hiện các cam kết mà Việt Nam đã gia nhập và đang trong quá trình hoàn tất các hiệp định thương mại hợp tác./.
 
 Duy Hiếu (lược ghi)

Cải cách thể chế kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư

03/11/2014
Trong phiên khai mạc kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XIII, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã trình bày Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 và nhiệm vụ 2015. Báo cáo khẳng định, trong bối cảnh có nhiều khó khăn thách thức của năm 2014, mặc dù vẫn còn mặt hạn chế, yếu kém nhưng hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại đã đạt được những kết quả tích cực. Điểm sáng nổi lên của nền kinh tế là công nghiệp tăng trưởng cao, nhất là tăng trưởng ở khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp khai khoáng; nông nghiệp phát triển ổn định, năng suất tăng lên, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực; dịch vụ tiếp tục đà tăng trưởng; từ chuyển biến tích cực này, dự báo chỉ tiêu tổng hợp đó là tăng trưởng GDP sẽ đạt và có khả năng tăng cao hơn 5,8%. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chủ quyền quốc gia được bảo đảm. Chính trị - xã hội ổn định; vị thế quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng lên. Các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mà Quốc hội đã đề ra cơ bản đạt được. Trong 14 chỉ tiêu kế hoạch năm 2014, dự báo có 13 chỉ tiêu đạt, vượt và 1 chỉ tiêu không đạt. Đây là sự nỗ lực, cố gắng rất lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Ngày 30/10 và buổi sáng 31/10/2014, Quốc hội thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015. Trong thời gian qua, bối cảnh kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu phục hồi nhưng với tốc độ chậm, còn mong manh và bất định. Khủng hoảng khu vực đồng tiền chung châu Âu chưa kết thúc, áp lực tài khóa tại Mỹ còn cao và rủi ro có thể gia tăng tại các nền kinh tế mới nổi. Bên cạnh đó, xung đột vũ trang, căng thẳng chính trị ở một số khu vực và dịch bệnh đang khiến những biến động trở nên khó lường. Trong khi đó, sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương - 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế ở Biển Đông của Việt Nam đã đặt ra những thách thức mới cho nước ta trong quan hệ kinh tế - thương mại với nước láng giềng và các nước khác.

Các ý kiến của đại biểu Quốc hội cơ bản thống nhất với báo cáo của Chính phủ. Trong tình hình nhiều khó khăn, thách thức, song kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội có nhiều mặt đáng khích lệ. Kinh tế vĩ mô năm 2014 ổn định, có một số mặt vững chắc hơn. Tăng trưởng kinh tế ở mức khá, dự kiến cả năm tăng 5,8% GDP. Lạm phát kiềm chế ở mức thấp, 9 tháng đầu năm CPI tăng ở mức 2,25%, dự kiến cả năm chỉ tăng từ 4,5% đến 5%. Xuất khẩu tăng khá, và đây là năm thứ 3 liên tiếp đạt được xuất siêu với số lượng lớn; cán cân thương mại thặng dư, dự trữ ngoại tệ tiếp tục tăng, tỷ giá VND/USD tương đối ổn định; chỉ số sản xuất công nghiệp tăng. Thu ngân sách đạt khá, tạo điều kiện vật chất để xử lý những vấn đề đột xuất phát sinh. Các đại biểu đánh giá cao sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, tháo gỡ khó khăn kịp thời đối với sản xuất, kinh doanh, chăm lo an sinh xã hội, đời sống nhân dân và nhất là các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Các đại biểu Quốc hội đánh giá cao sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ và vai trò của một số Bộ trưởng - Tư lệnh ngành cũng thể hiện rõ nét với tinh thần chủ động, tích cực trong việc đề xuất, thực thi các giải pháp hỗ trợ thị trường, tăng cường đi cơ sở để nắm sát tình hình, trực tiếp tháo gỡ những khó khăn, không chỉ tập trung giải quyết những vướng mắc trong ngành mình mà có sự phối hợp chặt chẽ hơn. Nhờ đó các giải pháp được triển khai một cách đồng bộ, mang lại hiệu ứng lan tỏa, tác động tích cực đến các mặt đời sống xã hội, trong đó phải kể đến tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ trưởng, trưởng ngành tiêu biểu như Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và một số Bộ trưởng khác.
 
Cac-thanh-vien-Chinh-phu-tham-du-Phien-hop-Quoc-hoi-ngay-01-11-2014.JPG
Các thành viên Chính phủ tham dự Phiên họp Quốc hội ngày 01-11-2014

Bên cạnh đó, các đại biểu Quốc hội cho rằng, nền kinh tế của chúng ta đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ, đó là: Tín hiệu phục hồi kinh tế từ phía cung và cầu đều chưa rõ ràng, quá trình phục hồi còn mong manh, chưa thoát vùng đáy tăng trưởng. Doanh nghiệp FDI chiếm 67% tổng xuất khẩu, 70% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước nhưng đóng góp thực sự của khu vực này cho nền kinh tế không cao. Kim ngạch xuất khẩu khoảng 148 tỷ đô la thì chỉ 1/3 là của các doanh nghiệp sản xuất trong nước, 2/3 của khối doanh nghiệp FDI. Điều đáng chú ý là các doanh nghiệp FDI xuất siêu đến 12 tỷ đô la, nếu loại trừ dầu thô thì cũng xuất siêu 8 - 9 tỷ đô la. Như vậy, doanh nghiệp trong nước xuất khẩu thấp và vẫn ở tình trạng nhập siêu. Lạm phát tuy được kiềm chế, nhưng nguy cơ lạm phát vẫn còn hiện hữu. Qua theo dõi, cho thấy trong nhiều năm trở lại đây, tổng phương tiện thanh toán tăng liên tục từ 16% - 18%, gấp khoảng 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần phải có sự lưu ý xử lý vấn đề này. Mặt khác, cân đối ngân sách nhà nước hết sức khó khăn. Nợ công xu hướng tăng nhanh. Nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng cũng ở mức cao. Phương án xử lý nợ xấu có thể xử lý được, nhưng khó khăn trong môi trường pháp lý và những điều kiện thực hiện đang cản trở việc chậm xử lý đối với nợ xấu. Chính vì khó khăn như vậy dẫn đến nhiều mục tiêu như tăng lương, bố trí chi trả nợ, bố trí chi đầu tư phát triển hết sức khó khăn. Các giải pháp hỗ trợ thị trường bất động sản vẫn chưa phát huy được hiệu quả. Mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế yếu. Cơ hội kinh doanh thấp do tổng cầu giảm. Khu vực kinh tế tư nhân vẫn là khu vực dễ bị tổn thương nhất, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thấp, tiêu thụ sản phẩm vẫn rất khó khăn, tỷ lệ doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể cao, biểu hiện ở chỗ 9 tháng đầu năm có hơn 53.000 doanh nghiệp thành lập mới thì vẫn có đến hơn 48.000 doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, 2/3 số doanh nghiệp trong 9 tháng đầu năm báo lỗ, không có lợi nhuận, tình trạng đổ vỡ của doanh nghiệp, khó khăn của doanh nghiệp rất lớn. Thu nhập người dân vẫn duy trì ở mức thấp, vẫn còn một bộ phận lao động có thu nhập rất thấp.

Quốc lộ 14 hiện nay đang trở thành đại công trường, đào bới nham nhở, ách tắc giao thông, gây bức xúc trong dư luận. Nhiều nhà thầu thi công ẩu, nhanh xuống cấp, thường xuyên án binh bất động, hoạt động cầm chừng hoặc chỉ hoạt động rầm rộ một thời gian ngắn để đối phó với giám sát, thanh tra của các cơ quan Chính phủ. Đại biểu Quốc hội nhấn mạnh và mong muốn Chính phủ chú ý có giải pháp mạnh mẽ để đẩy nhanh việc hoàn thành Quốc lộ 14 đi qua các tỉnh khu vực Tây Nguyên. Công trình Quốc lộ 14 hoàn thành sớm được ngày nào thì hàng chục nghìn hộ, hàng trăm nghìn dân, cử tri dọc hai bên quốc lộ đỡ cơ cực được ngày ấy, chưa nói đến những tác động tích cực về kinh tế - xã hội mang lại cho đời sống nhân dân Tây Nguyên. Cử tri đang lo lắng về chất lượng công trình, vì để đảm bảo tiến độ hoàn thành thì không tránh khỏi việc thi công ẩu. Rất mong Chính phủ bên cạnh việc có giải pháp đôn đốc hoàn thành tiến độ, cần có giải pháp giám sát thi công thật chặt chẽ. Bên cạnh đó, việc bố trí trạm thu phí dày đặc như kế hoạch gây ra không ít phiền toái, không đúng với quy định của Bộ Tài chính là mỗi trạm thu phí cách nhau tối thiểu 70km; đồng thời, với cơ chế thu phí của hình thức đầu tư BOT chồng chất thêm gánh nặng về phí cho người dân lưu thông trên Quốc lộ 14. Chính phủ nên rà soát, nghiên cứu để chuyển đổi hình thức đầu tư nâng cấp Quốc lộ 14 bổ sung thêm một phần bằng nguồn vốn trái phiếu.

Vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế là một chủ trương lớn nhưng thực hiện chậm và hiệu quả còn thấp. Tái cơ cấu lĩnh vực nông nghiệp mặc dù đã có đề án tổng thể chung nhưng việc triển khai cũng chưa đạt yêu cầu và mục tiêu còn phân tán. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước triển khai chậm, trong đó cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cũng chưa đạt được mục tiêu đề ra. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế tuy có cải thiện nhưng vẫn chậm so với các nước láng giềng. Thị trường bất động sản có phục hồi nhưng cũng chậm. Công tác phòng, chống gian lận thương mại còn hạn chế. Tình trạng doanh nghiệp FDI chuyển giá chưa được khắc phục. Sản xuất nông nghiệp được đánh giá là trụ đỡ của nền kinh tế trong lúc khó khăn nhưng tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần. Tình trạng cháy rừng, phá rừng còn gây nhiều hậu quả. Kinh tế biển đã được nhà nước ban hành nhiều chính sách hỗ trợ nhưng việc triển khai cũng còn gặp khó khăn, vướng mắc.

Một số chính sách gây ra hụt thu và tăng chi lớn đã có ảnh hưởng lớn đến cân đối ngân sách nhà nước. Tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm, tình hình nợ xấu có xu hướng tăng và việc xử lý còn chậm. Quy mô nợ công lớn đang ở mức sát trần cho phép, nợ đọng xây dựng cơ bản, nợ ngân hàng chính sách, nợ bảo hiểm xã hội cũng rất đáng lo ngại, áp lực trả nợ rất lớn. Cần phải đánh giá một cách thẳng thắn, trong đó cụ thể hóa cơ cấu nợ, chủ thể nợ, mức nợ hàng năm và tỷ trọng nợ công như Báo cáo của Bộ trưởng Bộ Tài chính đã bổ sung làm rõ những vấn đề này. Đặc biệt là phải quan tâm đến những phát sinh do thực hiện nguồn vốn ODA xảy ra.

Chương trình nông thôn mới cũng đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng cũng có những hiện tượng chạy theo thành tích và nhiều chỉ tiêu chưa phù hợp với đặc thù của từng địa phương, vùng, miền. Chỉ tiêu tạo việc làm thiếu vững chắc, tỷ lệ thất nghiệp chung theo báo cáo là giảm nhưng số lao động thiếu việc làm, không có việc làm vẫn rất nhiều, năng suất lao động xã hội thấp. Cần có đánh giá cụ thể, rõ hơn để có những giải pháp khắc phục. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là hộ nghèo ở nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn.

Một số đề xuất về cải cách giáo dục chưa hợp lý, sinh viên ra trường thiếu việc làm cũng gây bức xúc trong nhân dân. An toàn xã hội, an toàn giao thông, an toàn lao động, an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn về môi trường, tệ nạn xã hội, đạo đức xã hội xuống cấp vẫn là nỗi lo lắng thường xuyên của người dân. Quản lý tài nguyên, môi trường cũng còn mặt này, mặt khác hạn chế, đặc biệt là ô nhiễm môi trường ở làng nghề, các lưu vực sông vẫn tăng lên. Khai thác, sử dụng tài nguyên chưa được kiểm soát chặt chẽ. Cải cách hành chính còn hạn chế. Tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp vẫn còn diễn biến phức tạp. Tình trạng tham nhũng gây thất thoát lớn. Công tác kê khai, quản lý tài sản chưa có hiệu quả thiết thực. Tình hình vi phạm pháp luật trên một số lĩnh vực tiếp tục diễn biến phức tạp. Một số tội phạm gia tăng đáng kể như tội phạm mạng, tình trạng buôn bán người v.v...

Một số vấn đề cần phải làm rõ thêm trong Báo cáo của Chính phủ đó là, đánh giá hiệu quả liên kết vùng, có giải pháp tăng cường liên kết vùng và chính sách phát triển vùng động lực cũng như vùng khó khăn. Làm rõ vấn đề kiểm soát chặt chẽ hiệu quả sử dụng, tránh thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong sử dụng nguồn vốn ODA. Xuất siêu lớn chủ yếu do hàng gia công lắp ráp của các doanh nghiệp FDI với trình độ công nghệ tương đối trung bình và thấp. Chính phủ cần phải đánh giá đến tác động xã hội và môi trường đối với việc thực hiện nguồn vốn này.

Phân tích, đánh giá vấn đề nợ công trong dài hạn để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Báo cáo của Chính phủ rất rõ, đề nghị rút ra những quan điểm nguyên tắc chỉ đạo của Quốc hội về vấn đề nợ công và đưa vào nghị quyết của Quốc hội. Trong đó chủ ý khẳng định từ năm 2015 trở đi sẽ không phát hành trái phiếu Chính phủ có thời hạn dưới 5 năm.

Các đại biểu đề nghị tìm các giải pháp tích cực để có nguồn chi lương. Trước hết là cho các đối tượng khó khăn, thu nhập thấp và chính sách người có công. Tình hình nợ đọng văn bản hướng dẫn luật, thi hành luật, pháp lệnh và ban hành các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành luật cùng với việc tổ chức thực hiện chậm, làm ảnh hưởng đến hiệu lực của các văn bản pháp luật. Việc triển khai các chủ trương, chính sách còn chậm, nhất là những đề án đã được Chính phủ phê duyệt, chưa tạo ra động lực. Kỷ cương, kỷ luật, điều hành, chấp hành của xã hội cũng như của các cấp trong cơ quan điều hành cũng chưa được nghiêm túc.

Vấn đề là cần phải làm rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan của những hạn chế, yếu kém nêu trên. Nội dung gì thuộc về chính sách, về những hạn chế, yếu kém thuộc chính sách pháp luật cần phải hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Những nội dung gì do công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý, phối hợp tổ chức thực hiện gắn với trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương cần được chấn chỉnh cho đúng, đồng bộ và kịp thời, cần phải đổi mới cách làm để đạt hiệu quả cao hơn, chất lượng tốt hơn. Cần thiết phải xác định trách nhiệm của cá nhân phụ trách trong việc triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở từng ngành, lĩnh vực, địa phương để kỷ cương, kỷ luật được coi trọng và thực hiện nghiêm minh.

Về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2015, đa số đại biểu Quốc hội tán thành mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu chủ yếu của kinh tế - xã hội và môi trường, các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu mà Chính phủ đã đề ra. Đây là năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm, năm 2015 là năm các nước Đông Nam Á theo lộ trình dự kiến trở thành Cộng đồng kinh tế ASEAN. Bên cạnh những khó khăn, thách thức, chúng ta có nhiều thuận lợi, thời cơ để thúc đẩy tăng trưởng, hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra cho cả nhiệm kỳ. Đề nghị Chính phủ rà soát lại hệ thống chỉ tiêu chủ yếu cho đúng thực chất, tránh hình thức và cần cụ thể hơn các nhóm nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, trong đó nhấn mạnh các nội dung sau đây:

Cần dự báo tình hình thế giới và khu vực cũng như trong nước, nhận diện rõ đặc điểm, yêu cầu cho năm 2015 để xác định mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp, mục tiêu tổng quát thống nhất là: Ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tăng trưởng kinh tế cao và vững chắc hơn 2014, phát triển văn hóa, xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia và phát huy những kết quả của hoạt động đối ngoại và hội nhập. Các chỉ tiêu chủ yếu đề ra cần phấn đấu với tinh thần cao nhất, để chúng ta có thể kết thúc nhiệm kỳ, nhưng phải có tính khả thi và loại bỏ bớt những chỉ tiêu không chủ yếu.
 
Cac-đai-bieu-Quoc-hoi-hop-tai-Phong-hop-Dien-Hong,-Nha-Quoc-hoi-Hoi-truong-Ba-Đinh-moi.JPG
Các đại biểu Quốc hội họp tại Phòng họp Diên Hồng, Nhà Quốc hội -Hội trường Ba Đình mới

Nhiệm vụ, giải pháp cần xác định trọng tâm, trọng điểm những nhiệm vụ cần thực hiện trong năm 2015. Trên cơ sở đánh giá lại 4 năm qua, những tồn tại, yếu kém đã rút ra để có những giải pháp khắc phục thiết thực. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và tạo ra một sự thay đổi đột phá mạnh mẽ về thể chế quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, tài chính công, về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, ổn định, thu hút các nguồn lực đầu tư, phục hồi sản xuất kinh doanh, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế. Đảm bảo tính ổn định chất lượng của tăng trưởng, đẩy mạnh đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế và các đề án tái cơ cấu ngành, lĩnh vực, gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp công nghệ cao, phải có chính sách và cơ chế để phát triển doanh nghiệp tư nhân, huy động thêm nguồn vốn ngoài khu vực nhà nước tạo động lực phát triển. Tạo ra cơ chế linh hoạt để triển khai đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp có hiệu quả hơn, có chính sách hỗ trợ, khuyến khích mạnh mẽ, công khai, minh bạch để thu hút đầu tư của tư nhân, đầu tư của nước ngoài có khả năng ứng dụng công nghệ cao vào lĩnh vực này. Quan tâm đầu tư đúng mức, tập trung vào các vùng, miền trọng điểm, chú trọng công tác quy hoạch, xây dựng liên kết vùng phát huy lợi thế so sánh trong phát triển nông nghiệp.

Xử lý nợ xấu, sở hữu chéo, vốn ảo, tài sản ảo của các ngân hàng thương mại, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng dễ dàng hơn, tiết kiệm và giảm chi thường xuyên trong chi tiêu ngân sách. Triển khai tốt các chính sách an sinh xã hội, bố trí đủ kinh phí để các cấp, các ngành thực hiện các quy định của nhà nước về an sinh xã hội, nhất là cho các đối tượng chính sách về nhà ở, về y tế, giáo dục, tập trung nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao kỷ cương, kỷ luật, trách nhiệm cá nhân là động lực để nâng cao năng suất lao động một cách rõ rệt. Tiếp tục thực hiện mục tiêu lao động qua đào tạo, đào tạo nghề và nâng cao chất lượng, đáp ứng quá trình tái cơ cấu kinh tế, trong đó quan tâm mạnh mẽ hơn nữa giáo dục và đào tạo nghề cho người dân tộc thiểu số. Tăng cường công tác đánh giá chất lượng, tổ chức bộ máy và công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức. Cải cách tư pháp trên tất cả các mặt công tác, tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm, hiệu quả các nghị quyết của Quốc hội về công tác phòng,chống vi phạm pháp luật và tội phạm. Chủ động đưa ra các giải pháp, biện pháp để thực hiện các cam kết mà Việt Nam đã gia nhập và đang trong quá trình hoàn tất các hiệp định thương mại hợp tác./.
 
 Duy Hiếu (lược ghi)